Những cơ hội lớn cho xuất khẩu nông sản
Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, Bộ Công Thương, cho biết, hiện nay Việt Nam là nhà cung ứng trong Top 3 thế giới về cà phê, lớn thứ nhất về hạt điều, lớn thứ nhất về hạt tiêu, lớn thứ ba về gạo,…
Đặc biệt trong năm 2022, nhiều loại nông sản như chuối tươi, khoai lang, tổ yến, bưởi, nhãn, chanh leo, sầu riêng… được cấp phép xuất khẩu sang các thị trường phát triển và có tiêu chuẩn cao trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, New Zealand. Điều này tạo ra cơ hội lớn cho xuất khẩu trái cây.
Về thị trường, 8 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là ba thị trường xuất khẩu lớn nhất. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 21,9%, tăng 9,8%; tuy nhiên Mỹ chiếm 20,6%, giảm 27,4% và Nhật Bản chiếm 7,6%, giảm 10,6%.
Trong số các sản phẩm nông sản, rau quả là một trong những điểm sáng trong các nhóm ngành hàng xuất khẩu của nước ta. Dự báo cả năm 2023, nhiều khả năng xuất khẩu rau quả sẽ cán đích ở cột mốc lịch sử 5 tỷ USD.
Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, năm 2023, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường hấp dẫn nông sản Việt Nam nhờ nhu cầu bùng nổ sau hậu Covid-19 cộng với lợi thế về vị trí địa lý gần khiến chi phí logistics và rủi ro về thời gian thấp hơn các thị trường khác.
Còn đối với thị trường EU, ông Vincent Gothknecht, Trưởng đại diện Công ty I.Schroeder (Đức), cho biết Việt Nam đang có lợi thế lớn về xuất khẩu nông sản sang thị trường EU nhờ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Hiện có khoảng 50 nhà cung ứng tại Việt Nam cung cấp các sản phẩm nông sản như: vải, dứa, chanh dây và hàng thủy sản cho công ty.
Thích ứng với yêu cầu bắt buộc, có chiến lược bài bản
Mặc dù, các số liệu nêu trên cho thấy ngành nông sản của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích tích cực. Tuy nhiên, theo bà Hiền, thách thức đối với hàng nông sản hiện vẫn còn rất lớn khi phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là những xu hướng tất yếu tại hầu khắp các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Các quốc gia không chỉ điều chỉnh khung khuôn khổ pháp lý của mình với hàng loạt các Luật, các quy định mới cụ thể hóa 2 mục tiêu trên mà còn lan tỏa đến cả các quốc gia khu vực khác thông qua các cam kết chính trị mạnh mẽ tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) và COP27.
Trên thực tế, EU là thị trường đi tiên phong trong vấn đề này với việc ban hành hàng loạt đạo luật thuộc Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD), nhằm giải quyết các thách thức liên quan đến khí hậu và môi trường.
Giữa tháng 5 vừa qua, EU cũng đã ban hành đạo luật về Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Quy định này buộc các nhà nhập khẩu vào EU phải báo cáo lượng phát thải carbon trong hàng hóa.
Hay cuối tháng 6, EU đã ban hành Quy định Chống suy thoái rừng (EUDR). Theo đó, các công ty kinh doanh gỗ, cà phê, ca cao, cao su, đậu nành, gia súc, dầu cọ và các sản phẩm phái sinh tại EU phải chứng minh hàng hóa mà họ bán không liên quan đến hoạt động phá rừng từ sau năm 2021. Nếu vi phạm sẽ bị phạt tối thiểu 4% doanh số hàng năm thu được trên toàn EU.
Có thể thấy, các quy định về bảo vệ môi trường tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như EU, Bắc Mỹ và các thị trường Đông Bắc Á ngày càng chặt chẽ hơn. Chính phủ Mỹ và Canada cũng đang cân nhắc các cơ chế tương tự CBAM và EUDR của EU. EU cũng nêu rõ các nhóm mặt hàng nằm trong CBAM và EUDR sẽ được mở rộng trong tương lai.
Để có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường, giữ vững và tiếp tục phát triển thị trường, theo bà Hiền, việc chuyển đổi xanh hóa, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là xu hướng phát triển tất yếu và xu hướng này đang dần hình thành luật chơi mới về thương mại và đầu tư trên toàn cầu.
“Vì ngoài chất lượng và giá cả, khách hàng sẽ lựa chọn những doanh nghiệp đáp ứng được cao nhất các yêu cầu đặt ra; trong đó có yêu cầu về giảm phát thải, sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững”, bà Hiền nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Vincent Gothknecht khẳng định muốn xuất khẩu vào EU, sản phẩm phải có chứng nhận an toàn thực phẩm, chứng nhận tiêu chuẩn môi trường, lao động… Để làm được điều này, doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư nguồn lực khá lớn bởi đây là yêu cầu bắt buộc để thâm nhập thị trường.
Ông Lê Thanh Hoà, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thừa nhận tỷ trọng sản phẩm nông sản, thực phẩm Việt Nam được chứng nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn, bền vững còn thấp. Trong khi đó, yêu cầu của thị trường ngày càng cao, đòi hoi sản phẩm phải gắn với phát triển xanh, bền vững…
Theo ông Lê Thanh Hoà, để cải thiện khả năng thâm nhập vào các hệ thống phân phối quốc tế, ngành nông nghiệp và thực phẩm Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp thực tiễn và hội nhập.
Bên cạnh đó, ngành cần thường xuyên cập nhật quy định, thông tin phân tích thị trường, thị hiếu tiêu dùng để phát triển sản phẩm phù hợp; đẩy mạnh truyền thông quảng bá, xúc tiến thương mại có trọng tâm, trọng điểm theo chiến lược dài hạn.