Y tế - Sức khỏe
Tin mới y tế ngày 27/3: Khẩn trương phòng chống dịch cúm A (H5N1)
D.Ngân - 27/03/2024 08:26
Liên quan đến nam bệnh nhân (21 tuổi, sinh viên Trường Đại học Nha Trang) bị mắc cúm A/H5N1, Bộ Y tế có văn bản gửi Giám đốc Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa về việc tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm lây sang người.

Tăng cường các biện pháp phòng chống

Theo thông tin từ Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, dịch cúm gia cầm vẫn được ghi nhận rải rác trên đàn gia cầm ở nhiều địa phương trên cả nước.

Bộ Y tế có văn bản gửi Giám đốc Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa về việc tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm lây sang người.

Từ đầu năm đến nay, ghi nhận 6 ổ dịch cúm gia cầm tại 6 tỉnh, thành phố gồm: Bắc Ninh, Ninh Bình, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An và Tiền Giang.

Cũng liên quan đến cúm A(H5N1, Bộ Y tế nhận định, trong thời gian tới vẫn tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm cúm gia cầm sang người. Bệnh cúm gia cầm trên người hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc-xin phòng bệnh.

Hiện tại, chưa có bằng chứng cho thấy cúm A/H5N1 lây từ người sang người. Virus A/H5N1 là chủng cúm độc lực cao, người bị nhiễm thường diễn tiến nặng và tử vong với tỷ lệ cao (~50%).

Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho biết, có nhiều nguyên nhân nhiễm cúm A/H5, như: Sinh sống gần các trang trại gia cầm và lợn là điều kiện thuận lợi làm tăng tính đột biến kháng nguyên virus, làm virus dễ lây nhiễm; một số chợ trời, nơi bán gia cầm, trứng nhưng điều kiện vệ sinh không đảm bảo; ăn thịt gia cầm và trứng chưa được nấu chín...

Virus cúm gia cầm thuộc nhóm virus cúm A (họ Orthomyxoviridae). Vỏ của virus cúm A có glycoprotein bao gồm 2 loại kháng nguyên: Kháng nguyên trung hòa N (Neuraminidase) và kháng nguyên ngưng kết hồng cầu H (Hemagglutinin). Có 9 loại kháng nguyên N, ghi nhận từ N1 đến N9 và 16 loại kháng nguyên H, từ H1 đến H16.

Người bệnh nhiễm cúm A/H5 thường có những biểu hiện giống với cúm thông thường và kèm theo một số dấu hiệu nguy hiểm hơn. Mùa Đông, Xuân thời tiết trở lạnh là dịp cao điểm dễ bùng phát thành dịch.

Các dấu hiệu sớm của bệnh cúm thường bắt đầu trong vòng 2 - 5 ngày kể từ ngày bị nhiễm trùng, như: Sốt cao đột ngột (trên 38 độ C), đau ngực, khó thở, mệt mỏi, cảm thấy rét run, choáng váng đầu óc; đau họng, ho, thường ho khan, ho có đờm...

Theo BSCKI Bạch Thị Chính, Giám đốc y khoa, Hệ thống Tiêm chủng VNVC, có nhiều nguyên nhân nhiễm cúm A (H5) hay cúm gia cầm ở người, chủ yếu là do người nhiễm virus A/H5N1 thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với động vật bị nhiễm bệnh.

Virus cúm có tỷ lệ đột biến cao và kháng nguyên bề mặt rất dễ biến đổi. Trong đó, kháng nguyên H và N là thay đổi rõ nhất. Chỉ cần đột biến nhỏ đã dẫn tới sự biến đổi kháng nguyên, tạo ra biến chủng cúm mới.

Cúm A/H5N1 là phân nhóm cúm gia cầm có khả năng xâm nhiễm và tự biến đổi (hoặc tái tổ hợp) rất cao, liên tục tạo ra biến đổi gen lây từ người sang người, gây nhiều lo ngại về dịch cúm toàn cầu.

Đặc biệt, virus A/H5N1 có thể kết hợp với virus cúm ở người tạo ra một loại virus mới có đầy đủ tính năng của 2 loại virus cũ, dễ dàng tạo ra dịch cúm mới ở người với tỷ lệ biến chứng nặng, nguy cơ tử vong là rất lớn.

BSCKII Mã Thanh Phong, Khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh cho biết, mỗi năm tùy các đợt dịch mà vật liệu di truyền của virus cúm sẽ biến đổi và gây đợt cúm thông thường như cúm A/H1N1, A/H3N2.

Đây là đợt cúm hiền, không gây vụ dịch tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên, với những đợt dịch như H5N1, H7N9 thì những đột biến gây ra các tuýp cúm A nguy cơ sẽ cao hơn”.

Theo chuyên gia này, tùy theo từng đợt dịch sẽ là tuýp virus gì thì nguy cơ, độc lực và độ nguy hiểm sẽ có sự khác nhau. Nếu tuýp cúm độc lực mạnh thì mức độ ái lực đến các tế bào hô hấp sẽ nhân lên và phá hủy tế bào rất nhanh, gây viêm phổi, suy hô hấp, tử vong… hoặc biến chứng viêm phổi, viêm màng não.

Để chủ động phòng, chống dịch cúm A/H5N1 lây từ gia cầm sang người, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp: Không ăn gia cầm, các sản phẩm gia cầm ốm, chết và không rõ nguồn gốc; đảm bảo ăn chín, uống sôi; rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn. Người dân không giết mổ, vận chuyển, mua bán gia cầm và sản phẩm gia cầm không rõ nguồn gốc.

Khi phát hiện gia cầm ốm, chết tuyệt đối không được giết mổ và sử dụng mà phải thông báo ngay cho chính quyền địa phương và đơn vị thú y trên địa bàn.

Hạn chế tiếp xúc, giết mổ, ăn các loại động vật hoang dã, đặc biệt là chim. Khi có biểu hiện cúm như sốt, ho, đau ngực, khó thở có liên quan đến gia cầm phải đến ngay cơ sở y tế để được tư vấn, khám và điều trị kịp thời.

Với các cơ sở y tế cần tăng cường giám sát phát hiện trường hợp mắc mới, sẵn sàng thu dung, cách ly, điều trị theo quy định của Bộ Y tế và chỉ đạo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật kịp thời triển khai các biện pháp phòng, chống dịch; phối hợp với ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương giám sát phát hiện sớm các ổ dịch cúm trên gia cầm.

Tiêm vắc-xin để phòng dịch thủy đậu đang tăng cao

Theo tin từ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội, tuần qua (từ ngày 15 đến 22/3), trên địa bàn Hà Nội ghi nhận 44 ca mắc thủy đậu (tăng 21 ca so với tuần trước đó). Trong đó có một số huyện có nhiều bệnh nhân như Mê Linh với 12 ca, Thanh Trì (8 ca) và Mỹ Đức (6 ca).

Như vậy, cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay, Hà Nội ghi nhận 246 ca mắc thủy đậu (giảm 364 ca so với cùng kỳ năm 2023). Dù vậy, theo CDC Hà Nội dự báo, số ca mắc thủy đậu có thể gia tăng trong thời gian tới.

Để phòng bệnh thủy đậu, vắc-xin thủy đậu là biện pháp phòng bệnh chủ động, tránh lây nhiễm và biến chứng do bệnh. Vắc-xin phòng thủy đậu hiện tiêm được cho trẻ từ 9 tháng tuổi và người lớn chưa mắc bệnh. Lịch tiêm vắc-xin thủy đậu gồm 2 mũi, khoảng cách tiêm tùy thuộc vào loại vắc-xin và độ tuổi.

Vắc-xin thủy đậu không được chỉ định tiêm trong thai kỳ. Để phòng bệnh khi mang thai và cung cấp miễn dịch bảo vệ trẻ, phụ nữ chuẩn bị mang thai cần chủ động tiêm ngừa trước thai kỳ và ngừa thai ít nhất 3 tháng trước khi có thai.

Theo các nghiên cứu, hai mũi vắc-xin thủy đậu phòng được 88-98% nguy cơ mắc bệnh. Người đã tiêm thủy đậu nếu có mắc bệnh thường nhẹ và không gặp biến chứng. Người đã tiêm vắc-xin nếu mắc bệnh thường nhẹ và ít gặp các biến chứng nguy hiểm.

Vắc-xin vẫn có khả năng bảo vệ với người vừa tiếp xúc với người bệnh thủy đậu. Tiêm vắc-xin ngay khi tiếp xúc và không quá 3-5 ngày giúp người tiếp xúc gần phòng bệnh và giảm biến chứng không mong muốn.

Thủy đậu có thể gặp ở người lớn và trẻ em và đa số là lành tính. Khi bị thủy đậu, hầu hết người bệnh hồi phục trong khoảng 2 tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp có thể gặp các biến chứng nguy hiểm như bội nhiễm da, viêm phổi, viêm gan nặng, viêm não, nhiễm khuẩn huyết, viêm thận...

Người có hệ miễn dịch yếu như phụ nữ mang thai, trẻ nhỏ, người lớn tuổi, người có bệnh lý nền (tim mạch, đái tháo đường, suy thận…) có nguy cơ bệnh trở nặng và biến chứng, tử vong cao hơn nếu mắc bệnh.

Ngoài ra, virus có thể tồn tại trong tế bào thần kinh nhiều năm và diễn tiến thành bệnh Zona thần kinh gây đau đớn, giảm chất lượng cuộc sống cho người bệnh sau này. Khi phát bệnh zona thần kinh, người bệnh vẫn có thể tiếp tục lây virus cho người khác gây ra bệnh thủy đậu.

Ở phụ nữ mang thai, khoảng 20% mắc thủy đậu sẽ dẫn đến viêm phổi và trong số này có 40% trường hợp sẽ tử vong. Mắc thủy đậu ở tuần thai 13-20 dễ dẫn đến dị dạng thai, thai chết lưu. Nếu thai phụ mắc thủy đậu ở 3 tháng cuối, trẻ sinh ra có nguy cơ tử vong cao tới 30%, 15% có nguy cơ mắc bệnh Zona thần kinh trong 4 năm đầu đời.

Bác sĩ lưu ý khi bị thủy đậu, người bệnh cần được cách ly, điều trị đúng phác đồ, chăm sóc vệ sinh da đúng cách để mau khỏi bệnh, tránh các biến chứng và sẹo gây ảnh hưởng thẩm mỹ, giảm nguy cơ lây cho người khác và giảm chi phí điều trị.

Người bệnh lưu ý tắm rửa sạch sẽ bằng nước ấm và các dung dịch vệ sinh dịu nhẹ; mặc quần áo rộng rãi, thấm hút mồ hôi để các mụn mủ luôn được khô ráo; cắt móng tay, chân để tránh làm vỡ nốt thủy đậu khi vô tình cào, gãi.

Một số quan điểm sai lầm trong phòng tránh và điều trị thủy đậu như người từng mắc thủy đậu rồi có thể hoàn toàn không mắc lại, tiêm phòng thủy đậu sẽ không mắc bệnh, kiêng ra gió và kiêng tắm rửa, chọc vỡ mụn mủ để tổn thương da mau lành, tự ý sử dụng thuốc kháng virus, thuốc kháng virus, thuốc giảm viêm có corticoid… có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, tăng nguy cơ biến chứng, chi phí và kéo dài thời gian điều trị.

Người đã từng mắc thủy đậu thường có miễn dịch bền vững với virus. Tuy nhiên nếu tiếp xúc với nguồn lây bệnh mà không biết cách phòng tránh, miễn dịch cơ thể suy giảm, có thể hoàn toàn mắc lại thủy đậu. Khi đó, người bệnh vẫn có thể lây bệnh cho những người khác.

Tin liên quan
Tin khác