Cảng Tân Vũ (Cảng Hải Phòng - đơn vị thành viên của VIMC) đón TEU hàng container thứ 1 triệu thông qua trong năm 2023. |
Mặc dù phải đợi kết quả kiểm toán chính thức nhưng khả năng rất cao là VIMC sẽ tiếp tục có được một năm sản xuất kinh doanh đạt hoặc vượt hầu hết các chỉ tiêu đề ra.
Theo lãnh đạo VIMC, trong năm 2023, sản lượng vận tải biển toàn tổng công ty ước đạt 20,6 triệu tấn; sản lượng hàng thông qua cảng đạt 113,5 triệu tấn mang lại doanh thu 17.964 tỷ đồng, bằng 104% kế hoạch năm 2023.
Đặc biệt, trong năm 2023, lợi nhuận của VIMC đạt 2.084 tỷ đồng, đứng vị trí thứ 59 trong Top 100 doanh nghiệp có lợi nhuận tốt nhất Việt Nam năm 2023, được tôn vinh là doanh nghiệp có khả năng tạo lợi nhuận tốt, có tiềm năng trở thành những cột trụ cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam do VietNam Report đánh giá.
Đây là kết quả rất đang ghi nhận nhất là trong bối cảnh năm 2023, tình hình thị trường vận tải biển có nhiều biến động. Thị trường tàu hàng khô liên tục suy giảm, đặc biệt tại các phân khúc Supramax, Handysize, với sản lượng các mặt hàng chính như than, quặng, clinker, ngũ cốc sụt giảm nghiêm trọng. Chỉ số BDI có những thời điểm giảm xuống mức rất thấp, dao động ở mức 500 điểm (là mức thấp nhất kể từ tháng 5/2020). Thị trường vận tải container cũng suy giảm rất mạnh khi chỉ số World Container Index (WCI) giảm liên tục, thậm chí giảm tới trên 70% so với cùng kỳ năm 2022.
Sản xuất công nghiệp toàn cầu và lưu lượng vận chuyển hàng hóa bằng container vẫn ở tình trạng ảm đạm và chưa có dấu hiệu phục hồi. Sức mua tại các thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu ở mức thấp, với lượng hàng tồn kho cao, khiến nhu cầu nhập khẩu rất hạn chế. Thị trường vận tải tàu dầu sản phẩm diễn biến khá ổn định mặc dù không còn ở mức cao như hồi cuối năm 2022; giá cước ổn định là nhờ lượng cung tàu dầu ở mức thấp, đặc biệt là gam MR.
Bên cạnh đó, hệ thống cảng biển của VIMC chịu áp lực cạnh tranh ngày một lớn. Các cảng biển tư nhân liên tục ra đời, với sự linh hoạt rất cao trong chính sách giá là lợi thế lớn trong công tác phát triển khách hàng. Ngoài ra, trước tình hình khó khăn chung, các hãng tàu cũng buộc phải cắt giảm tối đa chi phí, điều này tạo áp lực lên doanh thu bốc xếp tại các cảng.
Các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải của VIMC cũng gặp nhiều khó khăn ở cả khía cạnh chi phí vận hành (giá xăng dầu, giá điện, …) và đầu ra khi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thiếu đơn hàng, làm giảm luồng vận chuyển hàng hóa giữa nhà xưởng và ga, cảng, cửa khẩu.
Thực hiện Chiến lược đã được phê duyệt, trong năm 2023, VIMC đã tập trung nguồn lực nhằm phát triển các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cảng biển, logistics nhằm kết nối chuỗi dịch vụ logistics của VIMC.
Cụ thể, Tổng công ty đã đẩy nhanh tiến độ thi công: Dự án Bến số 3, số 4 Cảng Lạch Huyện (dự kiến, hoàn thành đưa vào khai thác trong quý I/2025); Dự án nâng cấp Bến số 1 Cảng Quy Nhơn (đã khai thác thử nghiệm từ tháng 8/2023).
Đồng thời, VIMC cũng đang tập trung thúc đẩy việc xin phê duyệt chủ trương đầu tư của các dự án: Dự án Cảng Cần Giờ (TP. HCM); Dự án Cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng). Ngoài ra, với chiến lược phát triển mở rộng các ICD để tạo thành chuỗi dịch vụ logistics, VIMC đã nghiên cứu phát triển một số ICD (tại Ninh Giang, Hải Dương; Lạch Huyện, Hải Phòng; Tuy Phước, Bình Định; ...).
Tính đến cuối tháng 12/2023, hệ thống cảng của VIMC gồm 84 cầu cảng có tổng chiều dài 13.882 m, chiếm hơn 26% tổng số cầu cảng và gần 17% tổng số chiều dài cầu cảng của cả nước, công suất thiết kế hệ thống cảng của VIMC khoảng 60 triệu tấn hàng rời và hơn 6,5 triệu teu hàng container.
Tổng công ty cũng sở hữu, quản lý đội tàu gồm 59 chiếc, trong đó có 4 tàu dầu (chiếm 5% tổng trọng tải đội tàu VIMC), 10 tàu container (chiếm 7% tổng trọng tải đội tàu VIMC), 45 tàu hàng khô (chiếm 88% tổng trọng tải đội tàu VIMC). Tuổi tàu trung bình là 20 tuổi. Tổng trọng tải đội tàu khoảng 1,3 triệu DWT, trọng tải bình quân 23.019 DWT/tàu. Đội tàu của VIMC chiếm trọng tải tương đương khoảng 21% đội tàu của Việt Nam.
Trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải, các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải của VIMC quản lý và khai thác các trung tâm phân phối hàng hoá, ICD trên toàn quốc như Depot Nam Hoà, ICD Lào Cai, hệ thống kho CFS tại Đình Vũ, Hải Phòng, … Tổng diện tích kho, bãi khoảng 543.765 m2.