Chưa đạt kỳ vọng
Báo cáo của Bộ Y tế cho biết, từ năm 2011 đến nay, ngành Dược đã bảo đảm cung ứng thuốc có chất lượng với giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh và phòng bệnh.
Mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra hàng tỉ USD để nhập khẩu thuốc chữa bệnh khi sản lượng thuốc sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu. |
Sản xuất thuốc mở rộng về quy mô với 228 nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP-WHO, trong đó có 18 dây chuyền đạt tiêu chuẩn EU-GMP. Tổng giá trị thị trường dược phẩm năm 2022 ước khoảng 6,2 tỉ USD. Tỉ lệ thuốc không đạt chất lượng duy trì ở mức dưới 2%.
Vắc-xin sản xuất trong nước đáp ứng 11/12 loại vắc-xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Hoạt động quản lý phân phối, cung ứng thuốc ngày càng được chuẩn hoá, chuyên nghiệp, tăng khả năng tiếp cận thuốc của người dân.
Tuy vậy, ngành Dược đang phải đối mặt nguyên nhân phần nữa là do Việt Nam vẫn chưa phát triển công nghệ hóa dược, và chưa thành lập các vùng chuyên sản xuất dược liệu dù điều kiện đất đai Việt Nam có ưu thế.
Ngoài ra, chi phí để đầu tư công nghệ và nghiên cứu rất tốn kém nên phần lớn các cơ sở vật chất và các trang thiết bị của các cơ sở sản xuất thuốc cơ sở nghiên cứu để triển khai sản xuất còn thiếu nhiều thiết bị và không đồng bộ.
Vì thế mà việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất dược phẩm vẫn còn gặp nhiều trở ngại khi năng lực cạnh tranh yếu trong khi Việt Nam mở cửa thị trường, thuế nhập khẩu nội khối 0%.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp ngành dược nội địa của Việt Nam vẫn thiếu nhiều các chiến lược dài hơi, kỹ năng tiếp thị còn kém, là thị trường dược Việt Nam vẫn còn chưa ổn định do nguyên dược liệu sản xuất phụ thuộc khoảng 90% vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài.
Việc phụ thuộc vào nguyên liệu từ nước ngoài ngày nay khiến cho ngành dược dễ chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như chi phí nhập khẩu, biến động tỷ giá hay những cú sốc về nguồn hàng cung cấp.
Tiếp đó, các công ty dược trong nước hiện nay vẫn chủ yếu tập trung sản xuất các loại thuốc gốc (generic) có giá trị thấp, giá thành rẻ, khả năng cạnh tranh kém dẫn đến tình trạng vừa phải cạnh tranh với các thuốc generic nhập khẩu vừa cạnh tranh nội bộ ngành. Tiềm năng, thế mạnh về nguồn dược liệu và nền y học cổ truyền chưa được phát huy.
Bên cạnh đó, ngành dược rất thiếu nhân lực trong lĩnh vực dược lâm sàng, quản lý chất lượng, nghiên cứu phát triển thuốc mới. Sử dụng thuốc trong điều trị chưa hợp lý.
Thực tế đó dẫn đến mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra hàng tỉ USD để nhập khẩu thuốc chữa bệnh khi sản lượng thuốc sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu.
Giá trị nhập khẩu đã tăng 16%/năm. Chưa kể, ngành Dược tiềm năng đang đối diện với thách thức không nhỏ khi hầu hết các doanh nghiệp dược Việt Nam đều sản xuất các hoạt chất trong danh mục thuốc thiết yếu, gồm đủ các nhóm dược lý theo phân loại của WHO. Còn đối với các dòng thuốc biệt dược có giá trị cao thì vẫn còn phải nhập khẩu toàn bộ từ nước ngoài.
Theo Bộ Y tế, điểm yếu của công nghiệp dược Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều do vẫn thiếu định hướng và chưa chủ động được thuốc sản xuất trong nước.
Công nghiệp dược Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là công nghiệp bào chế đơn giản, hàm lượng kỹ thuật thấp, thực tế là công nghệ sản xuất dược phẩm chỉ ở trình độ trung bình, ít có các dạng bào chế công nghệ cao.
Một số chuyên gia cũng thừa nhận hiện về chất lượng thuốc, Việt Nam chưa có điều kiện để đánh giá tương đương sinh học khi cần, sau khi TPP có hiệu lực kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn hạn chế, trang thiết bị chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu.
Cần cơ chế đặc thù
Dù đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngành Dược Việt Nam đang phát triển nhanh nhất châu Á, đứng thứ 17/175 các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, chúng ta đã bước vào giai đoạn "già hóa dân số” từ năm 2017. Dân số già đi đồng nghĩa chi tiêu chăm sóc sức khỏe sẽ nhiều hơn.
Với cơ cấu dân số trẻ, đời sống và thu nhập ngày một được nâng cao hơn, do đó nhu cầu được chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng được nâng cao hơn. Đây chính là cơ hội để phát triển ngành dược phẩm trong tương lai.
Với những vấn đề nội tại của ngành Dược nêu trên, dự thảo Chiến lược quốc gia phát triển ngành dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 (Chiến lược) hướng đến sản xuất thuốc phát minh, có dạng bào chế mới, hiện đại;
Tham gia cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại cộng đồng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, số hoá và thiết lập nền tảng y tế số trong lĩnh vực dược phẩm.
PGS-TS. Lê Văn Truyền, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế đánh giá đến nay, nhu cầu thuốc điều trị thiết yếu, thông thường cơ bản được bảo đảm, vì vậy, ngành dược cần tập trung nguồn lực nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển, sản xuất những loại thuốc chuyên khoa, đặc trị, thuốc hiếm, thuốc phát minh.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế cũng nêu quan điểm, ngành dược phải xây dựng các trung tâm R&D, nên sớm có chiến lược đầu tư các nhà máy kỹ thuật cao, các nhà máy sản xuất nguyên liệu hoá dược và chiết xuất hoạt chất, chuyển giao công nghệ trong sản xuất dược phẩm.
Còn theo ý kiến của GS.TS. Nguyễn Hải Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dược Hà Nội, để nâng thứ hạng của ngành dược Việt Nam cần phải "đi tắt, đón đầu" trong đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển các loại thuốc sinh học, thuốc phát minh… nhằm tận dụng tiềm năng về trình độ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao ở trong nước.
Nhằm phát triển y học cổ truyền, theo ông Đậu Xuân Cảnh, Chủ tịch Hội đông y Việt Nam, chúng ta phải có một hệ thống nhà máy để bào chế dược liệu; hệ thống kho nguyên liệu tốt bảo đảm lưu giữ nguyên liệu từ dược liệu để chống lại việc được mùa nhưng bị ép giá thấp.
Trong xu hướng thương mại toàn cầu, các cơ sở phải chủ động trên thị trường, phát huy điểm mạnh, triệt tiêu điểm khó. Trong thương mại hiện đại hiện nay hướng đến sự minh bạch, giá trị chứ không phải cạnh tranh và triệt tiêu nhau.
Chuyên gia này cũng đề xuất, dược liệu Việt Nam phát triển cần nhiều hơn sự vào cuộc của liên ngành, liên bộ (Bộ Nông nghiệp; Bộ Y tế; Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Công Thương…).
Ông Cảnh cũng băn khoăn khi hiện nhiều Hiệp định thỏa thuận hợp tác, thương mại với các nước chúng ta chưa có nội dung về Đông y Việt Nam và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sản phẩm từ dược liệu…được các nước công nhận và cấp phép lưu hành các sản phẩm này tại đất nước họ; Hay việc cấp phép lưu hành cho nhiều sản phẩm thuốc từ dược liệu chưa thực sự thông thoáng, khoa học…
Về phía Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đề nghị Bộ Y tế tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu, giải trình, trong đó cần xác định rõ quan điểm, định hướng, ưu tiên thực hiện Chiến lược phát triển ngành dược phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, yêu cầu phát triển của ngành y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Cụ thể, từ nay đến năm 2025, Chiến lược phải xác định những dự án ưu tiên đầu tư về con người, cơ sở vật chất, cơ chế chính sách,… cho ngành Dược.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh các mục tiêu trong Chiến lược phải khả thi, cạnh tranh, hiệu quả, tận dụng được tiềm năng, thế mạnh, không duy ý chí, "tìm được cách tiếp cận trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới", tham gia vào chuỗi giá trị, cung ứng thuốc của các doanh nghiệp dược hàng đầu thế giới, nâng cao thứ hạng của ngành dược Việt Nam.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế tích hợp các bộ chỉ số, chuẩn mực quốc tế trong đánh giá chất lượng, chuẩn hoá quá trình sản xuất, bảo quản, phân phối, cung ứng thuốc.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải đóng vai trò dẫn dắt, đồng thời tạo điều kiện, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp dược trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển, sản xuất các loại thuốc mới, thuốc phát minh.
Để phát huy tiềm năng, thế mạnh về dược liệu, nền y học cổ truyền, Phó Thủ tướng gợi mở định hướng phát triển các vùng dược liệu trên cơ sở liên kết, tham gia chuỗi giá trị của các doanh nghiệp dược hàng đầu thế giới, có công nghệ bào chế hiện đại; thúc đẩy thị trường thức phẩm chức năng.