Khám sức khỏe tầm soát ung thư, người đàn ông phát hiện hai khối u gan
Ông Phong không có triệu chứng nhưng thuộc nhóm nguy cơ rất cao. Bệnh nhân lớn tuổi, nghiện thuốc lá nặng, hút trên một bao thuốc mỗi ngày trong hơn 30 năm, tiền sử xơ gan, viêm gan siêu vi B.
| Khám sức khỏe tầm soát ung thư, người đàn ông phát hiện hai khối u gan. |
Ông Phong đăng ký khám sức khỏe tổng quát cho cả gia đình, bản thân được tầm soát ung thư gan bằng siêu âm, phát hiện khối giảm âm trong gan. Xét nghiệm chỉ điểm ung thư trong máu, phát hiện mức AFP (chỉ điểm ung thư gan) tăng cao, lên đến 1440 ng/ml, gấp hơn 200 lần ngưỡng bình thường.
Chụp cắt lớp vi tính bằng máy CT Somatom Force VB 30 thấy hai khối u gan kích thước 15×20 mm tại hạ phân thùy VIII và 37×34 mm tại hạ phân thùy VI, ngấm thuốc. Phim chụp còn phát hiện bệnh nhân có lóc tách động mạch chủ ngực, xơ vữa, phình, giãn một số động mạch chủ khác và hẹp 56% gốc động mạch thân tạng.
TS.Trần Hải Bình, Phó trưởng khoa Ung bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội hội chẩn với Hội đồng Ung thư đa chuyên khoa (MTB), chẩn đoán ông Phong mắc ung thư gan giai đoạn II, chưa di căn nhưng u đa ổ và có kích thước lớn, chỉ định bệnh nhân nút mạch hóa chất động mạch gan siêu chọn lọc (Superselective TACE).
Khối u gan của bệnh nhân Phong trước (bên trái) và sau điều trị đã hoại tử, không còn ngấm thuốc (bên phải). PGS-TS.Nguyễn Xuân Hiền, Giám đốc Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Điện Quang can thiệp cho biết, nút động mạch gan siêu chọn lọc là phương pháp điều trị xâm lấn tối thiểu, an toàn và hiệu quả với u gan ác tính.
Mục đích là đưa hạt tải thuốc vào chặn động mạch gần khối u nhất, cắt nguồn máu mang oxy và dinh dưỡng nuôi tế bào ung thư, đồng thời giải phóng thuốc hóa trị liều cao để tiêu diệt khối u mà không làm lắng đọng thuốc ra ngoài.
Vì thuốc đi trực tiếp vào khối u, không gây tác dụng phụ nghiêm trọng như hóa trị toàn thân. Một số bệnh nhân nút mạch xong đạt được đáp ứng hoàn toàn và không cần phẫu thuật. Phương pháp nút mạch hiệu quả với cả một số trường hợp ung thư gan đa ổ, bệnh nhân lớn tuổi, có bệnh nền và không còn chỉ định phẫu thuật.
Ngày nút mạch, ông Phong được gây tê ở vùng bẹn phải, không cần gây mê toàn thân. Êkíp mở lỗ nhỏ, luồn ống catheter vào động mạch đùi, lên động mạch chủ bụng rồi vào động mạch gan dưới công nghệ chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) của hệ thống robot Artis Pheno. PGS-TS.Hiền bơm hạt tải thuốc, kiểm tra thấy dòng máu vào u giảm mạnh, rút ống catheter cầm máu cho ông Phong, kết thúc thủ thuật trong một tiếng.
Ông Phong được nút mạch khối u ở hạ phân thùy VI trước, một tháng sau nút mạch khối u ở hạ phân thùy VIII để đánh giá đáp ứng và hạn chế tác dụng phụ. Sau cả hai lần, người bệnh không đau, không mệt, các chỉ số gan ổn định.
TS.Bình cho biết, tại thời điểm khám lại sau ba tháng, phim chụp MRI thấy hai khối u gan bệnh nhân giảm đáng kể kích thước, không còn ngấm thuốc, các tế bào ung thư đã hoại tử. Ông Phong có sức khỏe tổng thể tốt, tăng cân, chỉ số AFP giảm về ngưỡng bình thường 6,5 ng/ml, đáp ứng hoàn toàn với điều trị.
Cũng theo bác sỹ này, tỷ lệ tử vong do ung thư gan rất cao do bệnh diễn biến âm thầm, giai đoạn sớm không có triệu chứng, đến khi bệnh nhân có các biểu hiện như vàng da, đau bụng, chức năng gan suy giảm khi khám phát hiện bệnh thì ung thư gan đã ở giai đoạn muộn. Lúc này điều trị rất khó khăn, tiên lượng xấu và chỉ còn mang tính chất kéo dài sự sống cho người bệnh, trung bình khoảng 3-6 tháng.
TS.Bình khuyến cáo người khỏe mạnh nên khám sức khỏe định kỳ hàng năm. Người có yếu tố nguy cơ ung thư gan cao như nhiễm virus viêm gan B, xơ gan, uống nhiều rượu, hút thuốc lá nên siêu âm gan và xét nghiệm chỉ điểm ung thư gan 3-6 tháng/lần.
Phát hiện sớm, ung thư gan có thể được điều trị hiệu quả bằng các biện pháp ít xâm lấn như nút mạch, đốt sóng cao tần. Có người bệnh ung thư gan vẫn sống trên 15 năm sau nút mạch.
Điều trị viêm mũi xoang không khỏi, phát hiện gai vách ngăn mũi phải
Ngạt mũi dai dẳng, chảy nước mũi kéo dài, điều trị nhiều lần không khỏi có thể không đơn thuần là viêm mũi xoang. Các bác sỹ cảnh báo, gai vách ngăn mũi. Đây là một bất thường giải phẫu ít được chú ý, có thể là nguyên nhân tiềm ẩn, cần được phát hiện và can thiệp kịp thời để tránh biến chứng.
Gần đây, Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC tiếp nhận trường hợp bệnh nhân N.T. (71 tuổi, Hà Nội) đến khám trong tình trạng ngạt mũi, chảy nước mũi kéo dài nhiều năm. Khai thác bệnh sử cho thấy bệnh nhân thường xuyên có các đợt ngạt mũi, chảy dịch mũi và đã nhiều lần đi khám, được chẩn đoán viêm mũi xoang, điều trị bằng thuốc chống viêm và giảm xuất tiết nhưng chỉ cải thiện tạm thời rồi tái phát.
Khoảng một năm trở lại đây, các triệu chứng xuất hiện với tần suất dày hơn và mức độ ngày càng nặng, bệnh nhân thường xuyên ngạt mũi, đau đầu, hắt hơi khi thay đổi thời tiết hoặc khi vào phòng điều hòa. Tình trạng ngạt mũi tăng dần khiến bà khó thở khi ngủ, phải thở bằng miệng, đôi khi kèm theo đau nhức vùng hốc mắt, ảnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống, buộc bệnh nhân phải tìm đến bệnh viện với mong muốn điều trị dứt điểm.
Tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, sau khi thăm khám lâm sàng và thực hiện các kỹ thuật cận lâm sàng cần thiết, kết quả nội soi tai mũi họng ống mềm cho thấy mũi phải có gai vách ngăn chạm lưng cuốn giữa, làm lõm sâu niêm mạc cuốn giữa và gây thoái hóa niêm mạc mũi.
Hình ảnh chụp CT xoang ghi nhận tình trạng đa xoang hàm mặt, theo dõi bội nhiễm nấm xoang sàng trước bên phải, kèm theo lệch vẹo và gai vách ngăn mũi. Trên cơ sở các kết quả này, bệnh nhân được chẩn đoán xác định gai vách ngăn mũi phải loại III và được chỉ định phẫu thuật nội soi chỉnh hình vách ngăn mũi.
Ca phẫu thuật được tiến hành thuận lợi. Sau mổ, bệnh nhân thở tốt cả hai bên mũi, không còn ngạt mũi hay đau nhức hốc mũi. Nội soi kiểm tra cho thấy vách ngăn mũi thẳng, không tổn thương niêm mạc đối diện, vị trí phẫu thuật cầm máu tốt, không tụ máu, tình trạng hồi phục tiến triển tích cực.
Trực tiếp thăm khám và điều trị cho bệnh nhân, BSCKII Nguyễn Chi Anh, chuyên gia Tai mũi họng, Hệ thống Y tế MEDLATEC cho biết, trong cấu tạo của hốc mũi, vách ngăn giữ vai trò quan trọng trong việc nâng đỡ cấu trúc mũi và đảm bảo lưu thông không khí.
Gai vách ngăn mũi là tình trạng dị dạng khi một phần xương hoặc sụn của vách ngăn nhô ra như một chiếc gai, thường nằm ở vị trí tiếp giáp giữa xương và sụn.
Bất thường này có thể gây nghẹt mũi kéo dài, đau đầu, chảy máu mũi, ảnh hưởng đến hô hấp và khứu giác. Hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do sự phát triển bất thường của xương và sụn từ khi còn bào thai hoặc do chấn thương vùng mũi như va đập, tai nạn trong quá trình sinh hoạt.
Theo bác sỹ Chi Anh, trong các phương pháp điều trị hiện nay, phẫu thuật nội soi chỉnh hình vách ngăn bảo tồn niêm mạc được đánh giá là giải pháp tối ưu và hiện đại nhất.
Phương pháp này cho phép kiểm soát tốt phẫu trường qua nội soi, bảo tồn tối đa niêm mạc vách ngăn, từ đó hạn chế các biến chứng như thủng vách ngăn, tụ máu, viêm hoặc dính niêm mạc sau phẫu thuật, đồng thời giúp người bệnh hồi phục nhanh và cải thiện rõ rệt chất lượng hô hấp.
Các chuyên gia khuyến cáo, người dân không nên chủ quan khi gặp các triệu chứng như ngạt mũi kéo dài, chảy dịch mũi dai dẳng, đau đầu mạn tính hoặc khó thở khi ngủ.
Việc thăm khám chuyên khoa Tai mũi họng sớm sẽ giúp phát hiện chính xác nguyên nhân, đặc biệt là các bất thường giải phẫu như gai vách ngăn mũi, từ đó lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp, tránh tình trạng điều trị kéo dài không hiệu quả hoặc lạm dụng thuốc.
Nội soi tai mũi họng kết hợp chụp CT xoang là những phương pháp hiện đại, có giá trị cao trong chẩn đoán và định hướng xử trí, giúp bảo vệ sức khỏe hô hấp và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Giữ lại bàn chân đang hoại tử cho bệnh nhân đái tháo đường nhờ kỹ thuật vi phẫu
Các bác sỹ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa thực hiện thành công một ca phẫu thuật hiếm gặp, giúp bảo tồn bàn chân đang hoại tử nặng cho bệnh nhân đái tháo đường, tránh nguy cơ cắt cụt chi và tàn phế suốt đời.
Bệnh nhân là ông N.V.T (51 tuổi, Hà Nội), nhập viện trong tình trạng bàn chân tổn thương nghiêm trọng do biến chứng của đái tháo đường.
Trước đó, ông mắc bệnh nhưng không được chẩn đoán, đường huyết tăng cao kéo dài mà không được kiểm soát. Khi đến viện, bàn chân đã hoại tử ướt, mô mềm mủn nát, tiết dịch hôi, ngón chân cái đã tự rụng. Sau khi các bác sỹ tiến hành cắt lọc toàn bộ mô hoại tử, phần gan bàn chân còn lại chỉ khoảng 40-50%, tạo nên một khuyết hổng rất lớn thường gặp trong biến chứng vi mạch ở bệnh nhân đái tháo đường lâu năm.
Theo TS.Dương Mạnh Chiến, chuyên gia phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, đái tháo đường mạn tính khiến đường huyết cao kéo dài, làm tổn thương và tắc nghẽn dần các vi mạch ở đầu chi. Khi máu không được tưới đầy đủ, mô bắt đầu thiếu oxy, hoại tử khô và có thể tự rụng.
Nếu nhiễm trùng xâm nhập, tình trạng nhanh chóng chuyển sang hoại tử ướt, diễn biến nguy hiểm và lan rộng. Phần lớn bệnh nhân đến viện ở giai đoạn muộn như vậy thường buộc phải cắt cụt chi, thậm chí đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng huyết đe dọa tính mạng.
Trong trường hợp của ông T., sau khi kiểm soát nhiễm trùng và điều chỉnh đường huyết, ê-kíp điều trị quyết định lựa chọn vi phẫu để bảo tồn bàn chân. Các bác sỹ lấy một vạt da kèm mạch máu từ vùng đùi, sau đó chuyển xuống bàn chân để che phủ khuyết hổng rộng.
Điểm đột phá của ca mổ nằm ở kỹ thuật nối mạch. Thay vì cắt đứt hoàn toàn mạch máu tại vùng chân để nối vạt như các phương pháp truyền thống, vốn làm giảm tưới máu xuống bàn chân, ê-kíp phẫu thuật áp dụng kỹ thuật “mở cửa bên” mạch máu.
Cách làm này tương tự như đục một “cửa sổ nhỏ” trên ống dẫn nước, giúp dòng máu chính xuống bàn chân vẫn được bảo tồn, đồng thời máu chảy vào vạt ghép rất tốt. Đặc biệt, máu từ vạt còn có thể “thấm ngược” xuống vùng bàn chân thiếu máu phía dưới, tạo nên hai nguồn cấp máu song song, làm giảm nguy cơ hoại tử tái phát.
TS.Dương Mạnh Chiến cho biết, đây chính là yếu tố khiến vi phẫu trở thành lựa chọn tối ưu trong điều trị tổn thương bàn chân đái tháo đường, điều mà trước đây nhiều bác sỹ còn e ngại do mạch máu của bệnh nhân thường xơ vữa, kém đàn hồi và rất khó can thiệp.
Ca phẫu thuật kéo dài khoảng 4-5 giờ, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối dưới kính hiển vi. Mỗi mũi khâu nối mạch đều phải đảm bảo lưu thông máu ổn định để duy trì sự sống cho mảnh vạt và toàn bộ bàn chân.
Sau mổ, tình trạng bệnh nhân tiến triển tốt: vạt da hồng hào, tưới máu tốt, nhiễm trùng được kiểm soát và vết mổ khô dần. Quan trọng hơn, bàn chân, bộ phận chịu toàn bộ trọng lực của cơ thể đã được giữ lại trọn vẹn, giúp người bệnh tránh khỏi một cuộc đời gắn liền với tàn phế.
Tuy nhiên, các bác sỹ nhấn mạnh rằng phẫu thuật chỉ là giải pháp xử lý hậu quả. Gốc rễ của vấn đề vẫn là kiểm soát bệnh đái tháo đường. Nếu đường huyết tiếp tục dao động và không được kiểm soát tốt, nguy cơ tắc mạch, hoại tử và nhiễm trùng hoàn toàn có thể tái diễn.
Vì vậy, sau phẫu thuật, bệnh nhân cần phối hợp chặt chẽ với chuyên khoa nội tiết để điều chỉnh đường huyết, theo dõi các biến chứng mạch máu và chăm sóc bàn chân đúng cách.
Các chuyên gia cũng khuyến cáo, người mắc đái tháo đường cần đi khám ngay khi xuất hiện các dấu hiệu như tê bì chân, giảm cảm giác, đau cách hồi khi đi bộ quãng ngắn, vết loét lâu lành hoặc da đầu ngón chuyển màu tím, đen. Đây là những biểu hiện sớm của thiếu máu chi thể và nếu được can thiệp kịp thời, khả năng bảo tồn bàn chân sẽ cao hơn rất nhiều.
Cần quản lý bệnh mạn tính theo hướng đa chuyên ngành, liên tục
Việc triển khai đánh giá nguy cơ bệnh mạn tính một cách hệ thống ngay từ tuyến cơ sở, cùng với mô hình quản lý bệnh mạn tính theo hướng đa chuyên ngành, liên tục và lấy người bệnh làm trung tâm, được xác định là chiến lược quan trọng trong dự phòng và nâng cao sức khỏe cho người cao tuổi.
Vừa qua, Hội Lão khoa Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học Kinh tế Y tế tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề cập nhật chiến lược dự phòng sức khỏe người cao tuổi và quản lý các bệnh mạn tính, với sự tham gia của nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực lão khoa và y tế dự phòng.
Phát biểu tại hội thảo, PGS-TS.Nguyễn Trung Anh, Chủ tịch Hội Lão khoa Việt Nam, Giám đốc Bệnh viện Lão khoa Trung ương, nhấn mạnh sự dịch chuyển quan trọng của y học hiện đại từ tư duy điều trị sang dự phòng sớm, đặc biệt đối với người cao tuổi.
Đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc đồng thời nhiều bệnh mạn tính và dễ gặp các biến chứng nghiêm trọng nếu không được theo dõi và quản lý phù hợp.
Theo PGS-TS.Nguyễn Trung Anh, thực tế cho thấy phần lớn các bệnh mạn tính có thể được phát hiện sớm hơn nếu người bệnh được đánh giá định kỳ và quản lý nguy cơ một cách liên tục. Nhiều biến chứng nặng nề hoàn toàn có thể được ngăn chặn nếu có hệ thống chăm sóc hỗ trợ kịp thời.
Khi đó, chất lượng cuộc sống của người cao tuổi không chỉ được cải thiện mà còn có thể duy trì ổn định trong thời gian dài. Dự phòng chủ động và sàng lọc định kỳ vì vậy đóng vai trò then chốt trong việc giảm tỷ lệ nhập viện, hạn chế biến chứng và giảm gánh nặng chi phí y tế cho cá nhân và toàn xã hội.
Tuy nhiên, hệ thống y tế hiện nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong công tác chăm sóc người cao tuổi. Thách thức đầu tiên là tình trạng đa bệnh lý mạn tính, khiến mô hình điều trị đơn tuyến hoặc đơn chuyên khoa không còn đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tế. Việc quản lý bệnh mạn tính cần được thực hiện theo hồ sơ cá thể hóa, thay vì cách tiếp cận rời rạc qua từng lần khám bệnh.
Thách thức thứ hai là nhu cầu chăm sóc liên tục và dài hạn, trong khi sự kết nối giữa bệnh viện, y tế cơ sở và gia đình vẫn chưa thực sự liền mạch. Việc thiếu chia sẻ dữ liệu và thiếu mô hình theo dõi sau điều trị dễ dẫn đến tái nhập viện và suy giảm chức năng ở người cao tuổi.
Thách thức thứ ba là yêu cầu ngày càng cao về bằng chứng khoa học và tiêu chuẩn hóa, đòi hỏi hệ thống đánh giá, phác đồ quản lý và dữ liệu theo dõi phải được xây dựng đồng bộ, tin cậy và lâu dài.
Tại hội thảo, nhiều báo cáo chuyên môn đã được trình bày, tập trung cập nhật những nội dung thiết thực trong thực hành lâm sàng như chẩn đoán và điều trị các hội chứng lão khoa thường gặp, dự phòng và nâng cao sức khỏe người cao tuổi, vai trò của tiêm chủng trong phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là các bệnh lý đường hô hấp.
Bên cạnh đó, các báo cáo cũng đề cập đến việc quản lý các bệnh mạn tính phổ biến ở người cao tuổi như rối loạn lipid máu, suy tim, rối loạn giấc ngủ, sa sút trí tuệ, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của chăm sóc dinh dưỡng hợp lý và duy trì lối sống lành mạnh.
Nhiều ý kiến tại hội thảo khẳng định tiêm vắc-xin là một trong những biện pháp dự phòng hiệu quả, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh, hạn chế biến chứng nặng, giảm nhập viện và tử vong ở người cao tuổi.
Việc tăng cường tiêm chủng không chỉ góp phần nâng cao chất lượng sống cho người cao tuổi mà còn giúp giảm áp lực cho hệ thống y tế trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra nhanh chóng.
Bên cạnh các báo cáo khoa học, các phiên thảo luận đã diễn ra sôi nổi, tập trung vào những vấn đề trọng tâm như triển khai đánh giá nguy cơ bệnh mạn tính một cách hệ thống ngay từ tuyến y tế cơ sở, xây dựng mô hình quản lý bệnh mạn tính theo hướng đa chuyên ngành, liên tục và lấy người bệnh làm trung tâm, cũng như tăng cường sự phối hợp giữa bệnh viện, y tế cơ sở và gia đình trong chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi.
Các đại biểu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc từng bước đưa Nghị quyết số bảy hai của Trung ương Đảng về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân vào thực tiễn đời sống.
Hội thảo được đánh giá là diễn đàn khoa học có ý nghĩa, góp phần định hướng chiến lược dự phòng và quản lý bệnh mạn tính cho người cao tuổi trong giai đoạn mới. Qua đó, hướng tới xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe toàn diện, phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong bối cảnh dân số đang già hóa nhanh.