Y tế - Sức khỏe
Tin mới y tế ngày 23/12: Ngoài 70 tuổi mới phát hiện mắc bệnh tim bẩm sinh
D.Ngân - 23/12/2025 10:34
Giảm khả năng vận động suốt nhiều năm, nghĩ do tuổi già, ông Bảo (71 tuổi) chỉ đi khám khi tình trạng mệt mỏi, hụt hơi ngày càng nặng. Tại bệnh viện, ông bất ngờ được chẩn đoán mắc bệnh tim bẩm sinh với lỗ thông liên nhĩ lớn, gây tăng áp phổi.

Ngoài 70 tuổi mới phát hiện bệnh tim bẩm sinh do thông liên nhĩ lớn

Theo chia sẻ của bệnh nhân: "Khi bác sỹ nói tôi bị tim bẩm sinh, cả gia đình đều rất bất ngờ. Không ngờ căn bệnh này đã theo tôi hơn 70 năm mà triệu chứng không rõ ràng nên tôi chủ quan không đi khám. May mắn là tình trạng của tôi vẫn còn can thiệp được".

Bệnh nhân đang điều trị tại cơ sở y tế.

Theo lời kể, nhiều năm trước ông đã bắt đầu thấy mệt, leo hai tầng cầu thang hoặc đi bộ khoảng 300 m là phải dừng lại thở dốc, có lúc hụt hơi không thể đi tiếp. Nghĩ đây là biểu hiện lão hóa tự nhiên, ông giảm cường độ vận động và tăng cường bồi bổ sức khỏe. Gần đây, tình trạng mệt mỏi tăng rõ rệt, khả năng gắng sức giảm mạnh nên ông đến viện thăm khám.

GS-TS.Võ Thành Nhân, Giám đốc Trung tâm Tim mạch Can thiệp cho biết, các triệu chứng của ông Bảo ban đầu gợi ý bệnh mạch vành, tình trạng các mạch máu nuôi tim bị hẹp khiến tim không được cung cấp đủ máu, gây khó thở, hụt hơi khi gắng sức.

Tuy nhiên, kết quả chụp cắt lớp vi tính (CT) cho thấy bệnh nhân không mắc bệnh lý này. Trong khi đó, siêu âm tim phát hiện ông có lỗ thông liên nhĩ đường kính khoảng 20 mm.

Theo các bác sỹ, tim người bình thường có bốn buồng gồm hai tâm nhĩ và hai tâm thất. Máu từ tim phải được đưa đến phổi để trao đổi oxy, sau đó quay về tim trái và được bơm đi nuôi cơ thể. Thông liên nhĩ là dị tật bẩm sinh khi xuất hiện lỗ thông giữa hai buồng tâm nhĩ, khiến máu giàu oxy từ nhĩ trái chảy sang nhĩ phải.

Với các lỗ thông nhỏ, bệnh có thể tự đóng. Tuy nhiên, lỗ thông lớn sẽ làm tăng lượng máu lên phổi, buộc tim phải làm việc quá mức. Nếu không điều trị, tim phải sẽ dần giãn to, suy yếu, gây nhiều biến chứng như rối loạn nhịp tim (rung nhĩ, cuồng nhĩ), suy tim phải, giãn buồng tim và tăng áp phổi.

GS.Nhân cho biết, ở trường hợp ông Bảo, lượng máu qua tim phải cao gấp ba lần tim trái, kèm theo tình trạng tăng áp phổi. Nếu tiếp tục trì hoãn điều trị, bệnh có thể tiến triển thành tăng áp phổi nặng, khi đó việc can thiệp bít lỗ thông có thể trở nên khó khăn hoặc chống chỉ định.

Ê kíp tim mạch đã tiến hành can thiệp bít dù thông liên nhĩ cho bệnh nhân bằng phương pháp ít xâm lấn. Bác sỹ luồn ống thông từ tĩnh mạch đùi đến vị trí lỗ thông. Do đường viền lỗ thông mỏng, ê kíp lựa chọn dù có kích thước lớn hơn để đảm bảo cố định chắc chắn, tránh nguy cơ tuột. Sau khoảng 45 phút, thủ thuật hoàn tất, lỗ thông được bít hoàn toàn.

Sau can thiệp, ông Bảo không đau, có thể đi lại nhẹ nhàng sau một ngày. Các triệu chứng mệt và khó thở cải thiện rõ rệt. Ông xuất viện sau hai ngày và được chỉ định dùng thuốc kháng kết tập tiểu cầu trong ba tháng.

Theo GS.Nhân, bệnh tim bẩm sinh thường được phát hiện từ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp được chẩn đoán rất muộn, ở độ tuổi ngoài 60, thậm chí trên 70 như ông Bảo. Nhiều bệnh nhân lớn tuổi có tâm lý “sống chung với bệnh” vì lo ngại rủi ro can thiệp, phẫu thuật.

“Quan niệm này cần được thay đổi”, GS.Nhân nhấn mạnh. Với các trường hợp thông liên nhĩ lớn, nếu không đóng lỗ thông, người bệnh sẽ ngày càng giảm khả năng gắng sức, đối mặt nguy cơ rối loạn nhịp tim, suy tim và tăng áp phổi. Can thiệp dù muộn vẫn giúp cải thiện triệu chứng, phòng biến chứng và nâng cao chất lượng sống.

Sau thủ thuật, bệnh nhân cần tuân thủ điều trị theo chỉ định, không tự ý ngưng hoặc thay đổi liều thuốc. Trong thời gian đầu, nên nghỉ ngơi, tránh hoạt động gắng sức; sau 2-4 tuần có thể tập luyện nhẹ nhàng để tăng cường sức khỏe tim mạch.

Đồng thời, duy trì chế độ ăn lành mạnh, hạn chế chất béo bão hòa, theo dõi sức khỏe định kỳ và đến bệnh viện ngay khi xuất hiện các dấu hiệu bất thường như đau ngực dữ dội, khó thở, choáng váng, ngất xỉu hoặc tim đập loạn nhịp.

Vi khuẩn kháng thuốc tấn công thùy phổi bé trai 5 tuổi

Bé Trung (5 tuổi) nhập viện trong tình trạng sốt cao kéo dài, ho nhiều đờm và sổ mũi. Qua thăm khám và xét nghiệm, các bác sỹ xác định trẻ bị viêm phổi thùy do vi khuẩn kháng thuốc, không đáp ứng với kháng sinh thông thường.

BS.CKI Nguyễn Hữu Hiếu, chuyên khoa nhi cho biết, bé Trung đã được điều trị kháng sinh ở cơ sở y tế trước đó nhưng bệnh không thuyên giảm. Kết quả chụp X-quang ngực ghi nhận hình ảnh đám mờ đồng nhất chiếm một phân thùy phổi. Xét nghiệm máu cho thấy số lượng bạch cầu tăng cao tới 20.000/mm³ (mức bình thường 4.000-10.000/mm³), chỉ số CRP đạt 91 mg/L, cao gấp 9 lần bình thường, cho thấy tình trạng viêm nhiễm nặng.

Bé được chỉ định sử dụng kháng sinh phổ rộng đường truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên, sau hai ngày điều trị, các triệu chứng sốt và ho đờm vẫn không cải thiện. Trước nguy cơ vi khuẩn kháng thuốc, bác sỹ quyết định đổi sang loại kháng sinh mạnh hơn, có phổ diệt khuẩn rộng nhằm kiểm soát các tác nhân thường gặp như phế cầu, tụ cầu và nhóm vi khuẩn không điển hình.

Sau khi thay đổi phác đồ, tình trạng của bé cải thiện rõ rệt: hết sốt, ăn uống tốt hơn. Bé được xuất viện sau khi hoàn tất 7 ngày kháng sinh tại bệnh viện và tiếp tục dùng thuốc thêm một tuần tại nhà để phòng ngừa tái phát hoặc biến chứng áp xe phổi. Phụ huynh được tư vấn về chế độ dinh dưỡng đầy đủ, giữ ấm cơ thể và vệ sinh môi trường sống sạch sẽ để phổi trẻ hồi phục hoàn toàn.

Theo bác sỹ Hiếu, viêm phổi thùy là tình trạng viêm nhiễm cấp tính gây tổn thương nhu mô khu trú tại một hoặc nhiều thùy phổi, đặc trưng bởi hiện tượng đông đặc phế nang. Nguyên nhân thường gặp nhất là phế cầu khuẩn. Bệnh dễ khởi phát sau các đợt nhiễm virus như cúm, sởi hoặc trong thời điểm giao mùa, khi hệ miễn dịch đường hô hấp suy yếu, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập.

Ở giai đoạn đầu, trẻ thường sốt cao, rét run, đau tức ngực, ho khan hoặc ho có đờm, mệt mỏi, chán ăn, nôn trớ. Sau khoảng ba ngày, bệnh có thể chuyển sang giai đoạn toàn phát với các dấu hiệu nặng hơn như thở nhanh, co kéo cơ hô hấp, ho đờm đặc; trường hợp nghiêm trọng trẻ có thể li bì, tím tái.

Viêm phổi thùy có thể gặp ở mọi lứa tuổi, song trẻ chưa được tiêm chủng đầy đủ (đặc biệt vaccine phế cầu và HiB), sinh non, suy dinh dưỡng nặng hoặc có bệnh lý nền như tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính là nhóm nguy cơ cao. Ô nhiễm không khí và hút thuốc lá thụ động cũng làm tăng đáng kể khả năng mắc bệnh.

Bác sỹ khuyến cáo, với các trường hợp nhẹ, trẻ có thể điều trị bằng kháng sinh phù hợp kết hợp thuốc hạ sốt, bù dịch và dinh dưỡng đầy đủ, đồng thời theo dõi sát tại nhà. Phụ huynh cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay nếu xuất hiện các dấu hiệu nguy hiểm như sốt cao khó hạ, co giật, thở nhanh, khó thở, tím tái, co rút lồng ngực, bỏ ăn bỏ uống.

“Biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là tiêm chủng đầy đủ vaccine theo lịch”, BS Hiếu nhấn mạnh, đồng thời khuyến cáo rửa tay thường xuyên, giữ ấm khi trời lạnh, đeo khẩu trang nơi đông người và tăng cường dinh dưỡng để nâng cao sức đề kháng cho trẻ.

Béo phì, cô gái trẻ phát hiện viêm gan do gan nhiễm mỡ độ nặng

Cho rằng tăng cân là “chuyện bình thường của gia đình”, Ngọc không ngờ việc tăng gần 30 kg chỉ trong nửa năm đã khiến gan tổn thương nghiêm trọng, tiến triển thành viêm gan do gan nhiễm mỡ độ 3, mức nặng nhất.

Ngọc chia sẻ, gia đình ai cũng có vóc dáng đầy đặn nên cô không thấy việc cân nặng tăng nhanh là bất thường. “Thỉnh thoảng tôi bị đầy hơi, khó tiêu, buồn nôn, đau nhói vùng hạ sườn phải nhưng các triệu chứng không diễn ra liên tục nên tôi chủ quan”, Ngọc nói.

Khoảng nửa năm trước khi đi khám, Ngọc bắt đầu nổi mẩn ngứa khắp người, thèm ăn ngọt, ăn vặt liên tục, cân nặng tăng gần 30 kg, cơ thể nặng nề rõ rệt, kèm theo rối loạn kinh nguyệt. Lo lắng trước những biểu hiện bất thường, gia đình đã đưa cô đến bệnh viện kiểm tra.

Ths.Trần Nguyễn Quỳnh Trâm, Phó khoa Nội tiết, Đái tháo đường, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM (cơ sở phường Tân Sơn Hòa), cho biết, khi nhập viện, Ngọc nặng 97 kg, BMI 38, thuộc nhóm béo phì mức độ cao nhất. Chỉ số mỡ nội tạng của bệnh nhân cao gấp ba lần mức an toàn. Kết quả xét nghiệm men gan và siêu âm cho thấy Ngọc bị gan to, gan nhiễm mỡ độ 3 và viêm gan.

Theo bác sỹ, lượng mỡ nội tạng tích tụ quá mức gây rối loạn lipid máu, thúc đẩy gan nhiễm mỡ tiến triển nặng thành viêm gan. Tình trạng viêm kéo dài có thể gây mệt mỏi, đau âm ỉ vùng gan, buồn nôn và đặc biệt nguy hiểm vì làm tăng nguy cơ tổn thương gan vĩnh viễn như xơ gan, suy gan, thậm chí ung thư gan.

Ngoài ra, tình trạng ngứa da, nổi mề đay kéo dài của Ngọc cũng là dấu hiệu cảnh báo gan nhiễm mỡ nặng, do muối mật bị dư thừa. Muối mật được tổng hợp từ cholesterol trong gan, đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa và hấp thu chất béo.

“Căn nguyên viêm gan ở bệnh nhân này là gan nhiễm mỡ độ nặng kéo dài. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể tiến triển thành xơ gan hoặc ung thư gan”, bác sỹ Trâm cho biết. Theo bác sỹ, Ngọc cần giảm ít nhất 5 kg mới có thể cải thiện tình trạng viêm gan.

Ngọc được xây dựng phác đồ giảm cân cá nhân hóa, kết hợp thuốc kiểm soát cảm giác thèm ăn, chế độ dinh dưỡng khoa học và vận động phù hợp.

Để động viên con, cả gia đình cùng hạn chế đồ ngọt, thức ăn nhanh trong bữa ăn hằng ngày. Thay cho bánh ngọt, trà sữa, Ngọc lựa chọn sữa tươi không đường, trái cây, salad, sữa chua. Cô nhảy dây 30 phút mỗi ngày và tham gia khóa leo núi nhân tạo trong nhà để duy trì khối cơ.

Ban đầu, cơ thể nặng nề khiến Ngọc gần như không thể leo nổi một mét, song cô kiên trì tập luyện mỗi ngày. Sau tháng đầu tiên, Ngọc giảm được 3 kg. Sau ba tháng, cân nặng giảm còn 85 kg, gan hết viêm, gan nhiễm mỡ cải thiện xuống độ 1, men gan gần trở về mức bình thường, tình trạng mẩn ngứa biến mất hoàn toàn. “Mục tiêu của tôi là giảm về mốc 65 kg”, Ngọc chia sẻ.

Theo bác sỹ Trâm, trước đây gan nhiễm mỡ và viêm gan thường gặp ở người trung niên nhưng hiện nay bệnh đang ngày càng trẻ hóa. Ngoài rượu bia, rối loạn chuyển hóa, suy giáp, béo phì là yếu tố nguy cơ hàng đầu. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ gan nhiễm mỡ ở nhóm người trẻ từ 19-35 tuổi đã tăng 26%, chủ yếu do chế độ ăn dư thừa năng lượng và lối sống ít vận động.

Không chỉ gây tổn thương gan, gan nhiễm mỡ còn làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường type 2, bệnh thận mạn và nhiều loại ung thư khác như ung thư đại tràng, ung thư vú, ung thư tụy.

“Giảm 5-10% trọng lượng cơ thể, duy trì chế độ ăn hợp lý và tập luyện đều đặn có thể cải thiện rõ rệt tình trạng viêm gan và xơ hóa gan do nhiễm mỡ. Người bệnh không nên tự ý uống thuốc bổ gan mà cần được bác sỹ chuyên khoa thăm khám và điều trị đúng cách”, bác sỹ Trâm khuyến cáo.

Tin liên quan
Tin khác