Ngân hàng - Bảo hiểm
Chuẩn bị chuyển giao bắt buộc tiếp 2 ngân hàng yếu; lãi suất tiếp tục tăng
T.L - 15/12/2024 08:39
Trình phương án chuyển giao bắt buộc GPBank và DongABank trước 20/12, big 4 ngân hàng hé lộ kết quả kinh doanh năm 2024, nhìn nhận áp lực tỷ giá, lãi suất tăng không phải do thanh khoản căng... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.
TIN LIÊN QUAN

Trình phương án chuyển giao bắt buộc GPBank và DongABank trước 20/12

Chính phủ cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sớm thực hiện theo thẩm quyền hoặc trình cấp thẩm quyền phương án xử lý đối với SCB.

Tại Nghị quyết số 233/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2024 vừa được ban hành, Chính phủ yêu cầu NHNN khẩn trương trình phương án chuyển giao bắt buộc 2 ngân hàng kiểm soát đặt biệt còn lại là Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu (GPBank) và Ngân hàng TMCP Đông Á (DongABank) trước ngày 20/12. Trước đó, VPBank và HDBank nhiều lần công bố chủ trương nhận chuyển giao ngân hàng yếu kém.

Trước đó, vào giữa tháng 10/2024, hai ngân hàng 0 đồng là CBBank và OCeanBank đã được chuyển giao bắt buộc cho Vietcombank và MB.

Nghị quyết số 233/NQ-CP cũng yêu cầu NHNN phải sớm thực hiện theo thẩm quyền hoặc trình cấp thẩm quyền phương án xử lý đối với SCB, không để chậm trễ hơn nữa.

Ngoài đẩy nhanh tái cơ cấu ngân hàng yếu, Nghị quyết của Chính phủ cũng yêu cầu NHNN Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay phục vụ sản xuất, kinh doanh, nhu cầu tiêu dùng dịp cuối năm và Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025; nghiên cứu xây dựng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng dành riêng cho lĩnh vực tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn vay nhằm thúc đẩy tiêu dùng, phát triển kinh tế.

NHNN cũng phải chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan điều hành tỷ giá, lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu đề ra, giữ vững ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, thị trường vàng và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. 

Điều hành tăng trưởng tín dụng kịp thời, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15% năm 2024. 

Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Thống đốc: Tái cơ cấu ngân hàng đang ở giai đoạn chưa từng có tiền lệ

Phát biểu tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, năm 2024 là một năm kinh tế thế giới đối mặt với nhiều biến động phức tạp và khó lường. Với đặc thù là nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những biến động này.  

Thêm vào đó, kinh tế trong nước năm 2024 đã có sự cải thiện với tăng trưởng phục hồi, tuy nhiên, những yếu kém nội tại vẫn cần thêm thời gian để khắc phục. Điều này đặt ra thách thức lớn cho NHNN trong việc cân đối các mục tiêu vừa kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng; vừa giảm lãi suất nhưng ổn định tỷ giá.

Kết thúc năm 2024, ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Lạm phát bình quân 11 tháng được kiểm soát ở mức 3,69%; Mặt bằng lãi suất cho vay giảm so với cuối năm 2023; Tỷ giá cơ bản ổn định, trong bối cảnh thị trường quốc tế biến động mạnh. Các tổ chức quốc tế đánh giá cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam.

Về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, NHNN đã đạt bước tiến quan trọng trong xử lý các ngân hàng yếu kém. Trong năm 2024, hai trong số bốn ngân hàng 0 đồng đã được chuyển giao bắt buộc. Hai ngân hàng còn lại đang được trình cấp có thẩm quyền phê duyệt sớm phê duyệt trong năm 2024. “Việc này đánh dấu một giai đoạn chưa từng có tiền lệ, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan”, Thống đốc nhấn mạnh.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng

Theo báo cáo của NHNN, năm 2024, điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần ổn định được kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng (TCTD), giữ ổn định được thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Trong điều hành lãi suất, NHNN tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới vẫn neo ở mức cao, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện để hỗ trợ nền kinh tế; tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, đồng thời yêu cầu các TCTD thực hiện báo cáo và công bố công khai mức lãi suất cho vay bình quân, chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân trên trang thông tin điện tử của TCTD. Theo báo cáo lãi suất của các NHTM, đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục giảm khoảng 0,96%/năm so với cuối năm 2023.

NHNN điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp, góp phần hấp thu các cú sốc bên ngoài; đồng thời, phối hợp đồng bộ các công cụ CSTT. Nhờ đó, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, thanh khoản ngoại tệ thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ; tỷ giá diễn biến linh hoạt theo cả hai chiều tăng/giảm, phù hợp với điều kiện thị trường.

Trong điều hành tín dụng, ngay từ cuối năm 2023, NHNN đã giao hết toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng. Trong năm 2024, NHNN đã chủ động thực hiện 2 lần điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD. Tính đến 13/12, tín dụng toàn nền kinh tế tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2023. Tín dụng tập trung vào các sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên.

Với thị trường vàng, nhờ các giải pháp đồng bộ của NHNN và sự phối hợp của các Bộ ngành liên quan, đến nay, mục tiêu cơ bản ban đầu là xử lý và kiểm soát chênh lệch giá vàng miếng SJC so với giá vàng thế giới trong biên độ phù hợp đã đạt được.

Sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm. Nợ xấu được tập trung xử lý và kiểm soát trong bối cảnh nền kinh tế và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp.   

Năm 2024, hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng tiếp tục được chú trọng hoàn thiện. NHNN đã và đang tiến hành xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Các TCTD 2024 để đảm bảo thực hiện đồng bộ với các quy định của Luật Các TCTD 2024. 

Big 4 ngân hàng hé lộ kết quả kinh doanh năm 2024

Năm 2024, tăng trưởng tín dụng của Agribank, Vietcombank, BIDV và VietinBank khá tốt, dao động từ 11-15%. Đặc biệt, nợ xấu của các ngân hàng được duy trì ở mức thấp.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch HĐQT Vietcombank

Phát biểu tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2025 tổ chức sáng 14/12, ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV cho hay, dự kiến kết thúc năm 2024, BIDV sẽ có quy mô tổng tài sản vượt mốc 2,6 triệu tỷ đồng; dư nợ tín dụng đạt gần 2 triệu tỷ đồng, tăng trưởng khoảng 14%.

Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch HĐQT Vietcombank cũng cho biết đến thời điểm này đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch do NHNN và đại hội đồng cổ đông giao. Dự kiến đến cuối năm 2024, tăng trưởng tín dụng ở mức 13% đạt quy mô trên 1,4 triệu tỷ đồng, tổng tài sản đạt gần 2 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 1%...

Trong nhóm big 4, VietinBank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng tốt nhất. Ông Trần Minh Bình, Chủ tịch HĐQT VietinBank cho hay, tính đến hết tháng 11/2024, tổng tài sản của ngân hàng ước đạt hơn 2,3 triệu tỷ đồng, tăng 14,7% so với năm 2023; tín dụng tăng trưởng 14,2% so với năm 2023 (đến ngày 10/12 tăng 14,8%); nguồn vốn huy động đạt gần 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu của VietinBank được kiểm soát ở mức 1,1%. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tiếp tục duy trì ở mức cao.  

Năm 2024 cũng là năm đạt kết quả cao nhất của Agribank sau 4 năm thực hiện Phương án cơ cấu lại. Ông Phạm Toàn Vượng, Tổng Giám đốc Agribank cho biết, dự kiến đến hết năm 2024, tổng tài sản của ngân hàng tăng 7,9% so với năm 2023; nguồn vốn đạt 2 triệu tỷ đồng, tăng 6% so với đầu năm; dư nợ đạt trên 1,7 triệu tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2023; nợ xấu được kiểm soát chặt chẽ, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 1,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 8%.

Tại Hội nghị ngành ngân hàng sáng nay, lãnh đạo các ngân hàng big 4 cũng kiến nghị nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn.

Chủ tịch HĐQT VietinBank kiến nghị NHNN nghiên cứu cơ chế cho phép các ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro hoạt động, bao gồm cả rủi ro công nghệ thông tin. Quỹ này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ứng phó kịp thời với các sự cố tấn công mạng và đảm bảo quyền lợi tài chính cho khách hàng khi xảy ra tổn thất; hỗ trợ xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, các chương trình trao đổi, hợp tác về nhân sự trong lĩnh vực chuyển đổi số tầm thế giới và khu vực; tích cực xúc tiến quá trình phê duyệt cơ chế sandbox, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có môi trường phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới an toàn, hiệu quả.

Theo ông Trần Minh Bình, cùng với chuyển đổi số, rủi ro kèm theo của các giao dịch ngân hàng là rất lớn, nguy cơ hệ thống ngân hàng bị tấn công nhiều hơn, có thể gây hậu quả lớn với tổ chức tín dụng. Trong khi đó, ở Việt Nam thì chưa có cơ chế bảo hiểm về thiệt hại về tài chính nếu các ngân hàng thương mại rơi vào hoàn cảnh này.  

Lãnh đạo Vietcombank, Agribank lại kiến nghị Chính phủ ban hành cơ chế cho phép các ngân hàng thương mại nhà nước được tăng vốn điều lệ từ lợi nhuận để lại hàng năm.

Theo ông Phạm Toàn Vượng, Tổng Giám đốc Agribank, để dư nợ tăng thêm mỗi năm 200.000 tỷ đồng, Agribank cần được bổ sung vốn điều lệ 15.000 -17.000 tỷ đồng. Do đó, Tổng Giám đốc Agribank kiến nghị Chính phủ và các cấp có thẩm quyền có cơ chế riêng cho các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, trong đó xem xét cấp bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận thực nộp hàng năm của Agribank, tối thiểu 10.000 tỷ đồng/năm, bắt đầu từ năm 2025.

Đối với hoạt động cấp tín dụng xannh, Chủ tịch BIDV kiến nghị, cần có chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả; Chính phủ cần sớm ban hành quy định về phân loại và phát hiện Dự án xanh, trong đó cần có sự tương đồng giữa các tiêu chí của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; cần có cơ chế ưu đãi để thu hút nguồn vốn nhà nước và tư nhân như miễn giảm thuế, phí…

Tín dụng cải thiện cuối năm, chảy mạnh vào sản xuất - kinh doanh

Tăng trưởng tín dụng cải thiện rõ nét trong quý cuối năm khi cầu vốn tăng. Các ngân hàng đẩy mạnh vốn vào lĩnh vực ưu tiên (sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu…).

Phó thống đốc ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú cho biết, tăng trưởng tín dụng đến ngày 29/11 đạt 11,9%, nhưng đến ngày 7/12 đã đạt 12,5%, cao hơn cùng kỳ năm ngoái (chỉ khoảng 9%), tổng dư nợ đạt khoảng 15,3 triệu tỷ đồng. Trong khi đó, huy động vốn đạt 14,8 triệu tỷ đồng, tốc độ tăng huy động vốn đạt 7,36%/năm.

Như vậy, tốc độ tăng dư nợ cao hơn khá nhiều so với tốc độ huy động vốn. Điều này chứng tỏ, ngoài việc huy động vốn từ nền kinh tế của các ngân hàng thương mại, NHNN cũng phải có động tác điều chỉnh hay đúng hơn là hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ vốn cho các ngân hàng thương mại bằng các công cụ điều hành chính sách.

Lý giải nguyên nhân của việc tín dụng tăng nhanh hơn năm ngoái, ông Đào Minh Tú cho biết, nền kinh tế năm nay có nhiều điểm tích cực, xuất khẩu tăng nhanh, các doanh nghiệp nhìn chung đã quay lại tốc độ tăng trưởng của các năm trước. Tăng trưởng kinh tế tích cực hơn nhờ sự điều hành rất quyết liệt, đồng bộ của cả Trung ương, địa phương, của Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ, chính sách tài khóa, tiền tệ có sự kết hợp hài hòa, giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, vay vốn, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.

Yếu tố có tính chất quyết định trong việc tăng trưởng tín dụng năm nay cao hơn năm ngoái là sự điều hành của NHNN, các địa phương. Ngay từ đầu năm, NHNN đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15%, các địa phương cũng rất quyết liệt để đạt được mục tiêu này và cấp thêm room. Nếu không bị ảnh hưởng của bão số 3, thì tăng trưởng tín dụng năm nay còn có thể cao hơn.

Các ngân hàng đang đẩy mạnh vốn vào sản xuất, kinh doanh. So với đầu năm, lãi suất bình quân với các khoản cho vay mới hiện đã giảm 0,96%, giúp các doanh nghiệp hạ chi phí đầu vào và tích cực vay vốn hơn. Thông thường, cuối năm là thời điểm giải ngân rất tích cực, nên ngành ngân hàng hy vọng sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng 15%.

Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Nam A Bank triển khai hàng loạt giải pháp tín dụng. Lãi suất cho vay tại ngân hàng này chỉ từ 6,4%/năm đối với VND, hạn mức cấp tín dụng lên đến 30 tỷ đồng/khách hàng, gói tín dụng lên đến 1.000 tỷ đồng. Đối với các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu, Nam A Bank áp dụng lãi suất vay USD ưu đãi chỉ từ 4,5%/năm.

Thời điểm cuối năm, nhu cầu vay kinh doanh, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mua nhà, xây dựng hoặc sửa chữa nhà… tăng cao. Nam A Bank triển khai gói lãi suất vay chỉ từ 3,2%/năm, không phí định giá tài sản bảo đảm. Đây là mức lãi suất thấp nhất thị trường tính đến thời điểm hiện tại, áp dụng cho khách hàng cá nhân.

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong dịp cuối năm 2024, Eximbank triển khai chương trình ưu đãi lãi suất vay USD. Các doanh nghiệp chưa từng phát sinh quan hệ tín dụng tại Eximbank được hưởng mức lãi suất ưu đãi chỉ 3,7%/năm. Đối với các doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại Eximbank, mức lãi suất vay USD áp dụng từ 3,8%/năm.

Eximbank cũng triển khai gói tín dụng 1.000 tỷ đồng với lãi suất vay VND từ 5,25%/năm dành riêng cho các doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam (VBCI)… Lãnh đạo cấp cao Eximbank cho hay, cuối năm, cầu vốn của khách hàng tăng, nên Ngân hàng nỗ lực giảm chi phí để hỗ trợ khách hàng, đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng.

Để hỗ trợ doanh nghiệp trong dịp cuối năm, ACB cho vay 5.000 tỷ đồng vốn giá rẻ và tiếp tục nâng lên 10.000 tỷ đồng. Trong khi đó, Agribank đưa ra gói tín dụng quy mô 20.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay chỉ từ 2,6%/năm; 2 gói tín dụng với tổng quy mô 110.000 tỷ đồng với lãi suất từ 3,5%/năm dành cho doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất chế biến, kinh doanh nông, lâm, thủy, hải sản, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch.

Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc NHNN TP.HCM cho hay, lãi suất cho vay thấp, bình quân khoảng 4%/năm, là yếu tố chính góp phần trực tiếp hỗ trợ chi phí sử dụng vốn cho các doanh nghiệp, giúp giảm giá thành sản xuất, từ đó giá bán giảm hoặc giữ ổn định. Trong các tháng còn lại của năm, tín dụng sẽ tiếp tục thực hiện tốt vai trò hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ban hành Thông tư hướng dẫn cơ cấu nợ đối với khách hàng bị thiệt hại bởi bão số 3

Ngân hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với khoản nợ của các khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi bão số 3.

Nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 và thiên tai sau bão, trên cơ sở đề xuất của ngân hàng Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1510/QĐ-TTg ngày 04/12/2024 cho phép các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài giữ nguyên nhóm nợ như đã được phân loại theo quy định của pháp luật trước thời điểm xảy ra thiên tai đối với khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ của các khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của bão số 3.  

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024, căn cứ Quyết định số 1510/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 53/2024/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3, ngập lụt, lũ, sạt lở đất sau bão số 3.

Thông tư bao gồm 9 điều, quy định những nội dung chính sau:

Đối tượng là các khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3 trên địa bàn 26 địa phương.

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xem xét cơ cấu số dư nợ gốc và lãi của khoản cho vay, cho thuê tài chính có số dư nợ gốc phát sinh trước ngày 7/9/2023 và phát sinh nghĩa vụ trả nợ từ ngày 7/9/2024 đến 31/12/2025.

Số dư nợ được xem xét cơ cấu còn trong hạn hoặc quá hạn không quá 10 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, trả nợ đã thỏa thuận. Tuy nhiên để hỗ trợ khách hàng có thời gian khắc phục hậu quả sau bão, Thông tư cho phép xem xét cơ cấu lần đầu tiên đối với số dư nợ quá hạn trên 10 ngày trong khoảng thời gian từ ngày 07/9/2024 đến hết 10 ngày kể từ ngày Thông tư có hiệu lực.

Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ được thực hiện đến hết ngày 31/12/2025 và không giới hạn số lần cơ cấu.

Thời điểm trả nợ cuối cùng của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ được xác định phù hợp với mức độ khó khăn của khách hàng nhưng không vượt quá ngày 31/12/2027.

Việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư hướng dẫn việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cùng với việc Thủ tướng quyết định cho phép giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với khoản nợ của các khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3 sẽ góp phần hỗ trợ giảm áp lực tài chính cho doanh nghiệp, người dân, tạo điều kiện để khách hàng có thể tiếp cận vốn vay mới, có thêm năng lực để khôi phục lại sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống sau thảm họa thiên tai.  

Ngân hàng mạnh tay tăng lãi suất tiền gửi: Không phải do thanh khoản căng

Chị Hoàng Thanh Lê (Hà Nội) cho biết, đầu tháng 12/2024, chị được nhân viên VPBank mời chào gửi tiết kiệm với lãi suất ưu đãi. “Tôi gửi tiết kiệm 500 triệu đồng kỳ hạn 6 tháng, sẽ được ngân hàng tính lãi suất 5,7%, tăng 0,7% so với lãi suất niêm yết”, chị Phương cho biết.

Không chỉ VPBank, hầu hết các ngân hàng hiện nay đều áp dụng lãi suất “đặc biệt” với các khoản tiền gửi lớn. Tiền gửi càng nhiều thì mức lãi suất đặc biệt càng lớn. Hiện nay, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng tại một số ngân hàng lên tới 6-6,25%/năm, áp dụng với khoản tiền gửi từ 1-3 tỷ đồng. Với các khoản tiền gửi từ 5-10 tỷ đồng, lãi suất tiền gửi thỏa thuận có thể cao hơn nữa.

Làn sóng tăng lãi suất huy động chưa dừng lại kể từ tháng 4/2024 đến nay và đang có dấu hiệu tăng nhiệt trong hơn một tháng qua, khi số lượng ngân hàng niêm yết lãi suất tiền gửi trên 6%/năm ngày càng nhiều.

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, nguyên nhân chính khiến các ngân hàng phải tăng lãi suất là để phục vụ nhu cầu tăng trưởng tín dụng dịp cuối năm. Ngoài ra, tăng lãi suất huy động cũng là giải pháp giúp các ngân hàng cạnh tranh với các kênh đầu tư khác.

Tuy vậy, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, lãi suất huy động tăng không loại trừ nguyên nhân khác. “Có thể do đầu ra (tín dụng) tăng, song cũng có thể do thanh khoản của ngân hàng có vấn đề, hoặc do nợ xấu đang tăng lên, nên ngân hàng buộc phải tăng huy động để bù đắp”, ông Nghĩa nói.

Theo chuyên gia này, lãi suất đầu vào tăng sẽ khiến lãi suất cho vay nhích lên. Trong khi đó, sức cầu của nền kinh tế đang suy yếu. Tín dụng toàn hệ thống tính tới ngày 22/11 chỉ tăng hơn 11%, còn xa mục tiêu 15% cả năm.

Dù vậy, Ngân hàng Nhà nước vừa nới room tín dụng lần thứ hai kể từ đầu năm, cho thấy sự tăng trưởng tín dụng không đồng đều giữa các ngân hàng. Theo báo cáo tài chính quý III/2024, 9 tháng đầu năm nay, có ngân hàng tăng trưởng tín dụng hai con số, song cũng có nhiều ngân hàng tăng trưởng tín dụng âm.

Chỉ trong tuần đầu tháng 12, thị trường ghi nhận thêm 5 ngân hàng tăng lãi suất. Lãi suất tiền gửi tăng trong khi các kênh đầu tư khác còn bấp bênh khiến dòng tiền gửi tiếp tục đổ vào ngân hàng.

Ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi (NTU) nhận định: “Trong bối cảnh kinh tế biến động, gửi tiết kiệm vẫn là lựa chọn an toàn cho nhà đầu tư ưu tiên bảo toàn vốn. Với lãi suất huy động quanh mức 6%/năm, gửi tiết kiệm không chỉ đảm bảo lãi suất thực dương, mà còn giữ được tính thanh khoản cao”.

Tiền gửi ngân hàng đang giữ mức kỷ lục hơn 14 triệu tỷ đồng. Ông Huy cho rằng, có 3 nguyên nhân chính khiến người dân ồ ạt gửi tiền vào ngân hàng: lãi suất đang ấm lên; nhà đầu tư đang thiếu kênh đầu tư phù hợp do thị trường chứng khoánbất động sản khó khăn, trong khi vàng đang chững lại và tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường nhiều bất ổn khiến nhà đầu tư có tâm lý gửi tiền vào ngân hàng để chờ đợi, sẵn sàng nắm bắt cơ hội trong tương lai. 

PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế cho rằng, cơ hội giảm lãi suất cho vay hầu như không còn. “Năm 2024, nhờ tiết giảm chi phí, hệ thống ngân hàng đã giảm được khoảng 0,7% lãi suất cho vay. Tuy nhiên, tôi cho rằng, cơ hội giảm thêm lãi suất trong thời gian tới là rất khó, năm nay là ‘vùng đáy’ của lãi suất cho vay”, PGS-TS. Đinh Trọng Thịnh nhận định.

Mặc dù mặt bằng lãi suất có thể nhích lên, song chuyên gia này cho rằng, năm nay tín dụng có thể tăng 15% và sang năm có thể tăng 13-17% tùy thuộc vào sự phục hồi của thị trường bất động sản, trái phiếu… Nông nghiệp, xuất khẩu và bất động sản vẫn được dự báo là những lĩnh vực hấp thụ vốn tốt của nền kinh tế.

Trong bối cảnh lãi suất huy động nóng lên từng ngày, cuối tháng 11/2024, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành công văn yêu cầu các tổ chức tín dụng duy trì mặt bằng lãi suất tiền gửi ổn định, hợp lý, phù hợp với khả năng cân đối vốn, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh và năng lực quản lý rủi ro, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và mặt bằng lãi suất thị trường.

Đồng thời, tiếp tục thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp, đơn giản hóa thủ tục cho vay, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào quy trình cho vay..., phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp.

Tỷ giá được nhận định khó áp lực cao trong dịp cuối năm, nếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất một lần nữa. Song chu kỳ cắt giảm lãi suất của Fed được cho là sẽ chậm lại và có áp lực lên tỷ giá.

ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm tỷ giá trung tâm 11 VND trong cuối tuần qua, xuống 24.255 VND/USD. Vietcombank mua vào 25.134 - 25.164 VND/USD, bán ra 25.467 VND/USD, giảm 50-60 VND/USD so với giữa tháng 11/2024. Sở dĩ tỷ giá giảm do sức khỏe USD trên thế giới tiếp tục điều chỉnh trong thời gian gần đây. Chỉ số DXY về dưới 106 điểm, khi Fed có khả năng cắt giảm thêm 0,25% lãi suất USD trong cuộc họp tới.

Theo đánh giá của ông Đinh Đức Quang, Giám đốc Khối Kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng UOB Việt Nam, trên cơ sở Việt Nam tiếp tục đảm bảo các cân đối lớn, thặng dư thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch tăng trưởng sẽ hỗ trợ tỷ giá biến động quanh mức 3%. Nguyên nhân là đồng tiền nội địa đã, đang được quản lý chặt chẽ trong khuôn khổ các hoạt động thương mại, đầu tư dài hạn hơn là công cụ đầu tư, đầu cơ ngắn hạn, nên kết quả bầu cử Mỹ sẽ ít có tác động trực tiếp đến lãi suất VND và tỷ giá.

Ngân hàng MBS cho rằng, áp lực tỷ giá sẽ hạ nhiệt và dao động khoảng 24.700-24.900 VND/USD trong quý IV/2024, do được hỗ trợ bởi những yếu tố như Fed và các ngân hàng trung ương lớn tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Bên cạnh đó, nguồn cung ngoại tệ vào Việt Nam tiếp tục dồi dào từ thặng dư thương mại, dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối, đồng thời thâm hụt thương mại dịch vụ ngày càng thu hẹp.

Nền lãi suất toàn cầu đạt đỉnh từ tháng 8/2024 và đến tháng 11/2024, có hơn 29% ngân hàng trung ương có động thái tăng lãi suất, còn lại hơn 70% ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất. Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới có động thái cắt giảm rõ ràng như Canada, Anh trong tháng 6 và 8, hay Fed giảm lãi suất USD 2 lần. Các yếu tố bên ngoài này sẽ tác động tích cực lên tỷ giá dịp cuối năm.

Theo HSBC, trong thời gian còn lại của năm, khả năng Fed sẽ thêm một lần giảm lãi suất USD trong tháng 12/2024, với mức cắt giảm 25 điểm %. Một trong những lý do là kinh tế Mỹ tăng trưởng khi lạm phát hạ nhiệt, lãi suất USD giảm.

Thị trường vẫn đang dự báo khả năng Fed cắt giảm 0,25% tại cuộc họp tháng 12/2024, cùng mức cắt giảm nhẹ hơn vào năm 2025, do rủi ro lạm phát cao hơn từ các chính sách của ông Donald Trump. Trong khi đó, các quan chức Fed, bao gồm cả Chủ tịch Jerome Powell chỉ ra rằng, Ngân hàng Trung ương Mỹ đang khá thận trọng trong lộ trình cắt giảm lãi suất điều hành.

Thực tế, ngay sau khi ông Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, Chỉ số DXY tăng mạnh khiến tỷ giá lập tức nối đà tăng vọt, với giá bán ra niêm yết tại các ngân hàng thương mại trên 25.500 VND/USD, tương đương mức trượt giá trên 4,5%, sát rìa trên của biên độ kiểm soát tỷ giá mà NHNN đặt ra.

Ông Michael Kokalari, Giám đốc Phòng Phân tích kinh tế vĩ mô và Nghiên cứu thị trường của VinaCapital cho rằng, rủi ro lớn nhất đối với thị trường chứng khoán Việt Nam và các thị trường mới nổi khác là khả năng USD tiếp tục tăng giá... Theo đó, Chỉ số DXY đã tăng khoảng 7% trong thời gian trước và sau cuộc bầu cử Mỹ, phần nào do lo ngại về thuế quan.

Tỷ giá USD/VND đã giảm gần 5% tính đến thời điểm này trong năm và nếu Chỉ số DXY tiếp tục tăng, mức giảm giá VND có thể vượt qua ngưỡng quan trọng 5% trong năm, khiến NHNN phải thắt chặt chính sách tiền tệ và/hoặc tăng lãi suất để hỗ trợ VND.

Các chuyên gia tài chính cho rằng, càng về cuối năm, nhu cầu ngoại tệ càng tăng mạnh để chuẩn bị cho chu kỳ sản xuất năm mới. Hiện tại, có những lo ngại nhất định, nhưng tỷ giá vẫn được kiểm soát, nếu các yếu tố khác không biến động quá mạnh.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho hay, NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến thị trường, trong trường hợp tỷ giá có biến động quá lớn, sẽ kịp thời can thiệp bán ngoại tệ. Với lãi suất, NHNN sẽ cân nhắc bởi nếu giảm lãi suất quá, sẽ tác động làm tăng tỷ giá, ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Theo bà Hồng, Fed giảm lãi suất thoạt nhìn có vẻ làm giảm áp lực đối với tỷ giá, nhưng tỷ giá và thị trường ngoại hối trong nước chịu tác động bởi nhiều yếu tố, không chỉ là lãi suất của Fed, mà còn phụ thuộc cung - cầu ngoại tệ thực của nền kinh tế. Nếu xuất khẩu cải thiện, thu hút đầu tư nước ngoài tăng, thì cung cải thiện, điều hành tỷ giá thuận lợi. Song nếu xuất khẩu khó khăn, không có đầu ra, hoặc khi nhu cầu nhập khẩu tăng, tỷ giá sẽ gặp áp lực. Đấy là chưa nói đến yếu tố tâm lý kỳ vọng, đầu cơ, găm giữ.

Tin liên quan
Tin khác