Doanh nghiệp
Dịch vụ logistics và giao hàng tận nơi tăng mạnh nhờ thương mại điện tử "tăng tốc"
Thế Hải - 26/11/2020 22:31
Sự tăng tốc của thương mại điện tử và sử dụng các nền tảng kỹ thuật số ở Việt Nam là xu hướng mới có liên quan đến lĩnh vực logistics ở Việt Nam.
Bà Stefanie Stallmeister, Giám đốc Điều hành Danh mục Dự án WB tại Việt Nam cho biết, khi thương mại điện tử tăng tốc, nhu cầu về các dịch vụ logistics và giao hàng tận nơi sẽ ngày càng tăng.

Hai xu hướng mới đã xuất hiện từ đại dịch Covid-19 có liên quan đến lĩnh vực logistics ở Việt Nam đã được Giám đốc Điều hành Danh mục Dự án Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB), bà Stefanie Stallmeister đưa ra Diễn đàn Logistics Việt Nam 2020.

Theo bà Stefanie Stallmeister, logistics là một phần không thể thiếu của chuỗi giá trị, cả trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp logistics thúc đẩy kinh doanh và thương mại, giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm của họ đến với khách hàng.

Đại dịch Covid-19 đã làm rõ hơn tầm quan trọng của các dịch vụ logistics. Đại dịch này đã gây ra sự gián đoạn trong các cơ sở sản xuất và nhà máy trên khắp thế giới, và những ảnh hưởng này lan truyền qua chuỗi cung ứng toàn cầu. Năng lực logistics bị kéo căng bởi tăng thêm nhu cầu vận chuyển vật tư y tế, thực phẩm và vật dụng gia đình, đặc biệt là trong thời gian phong toả.

Covid cũng làm bộc lộ tính dễ bị tổn thương của các chuỗi giá trị phức tạp đối với sự gián đoạn trong sản xuất, đặc biệt là ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Để ứng phó với tình hình này, doanh nghiệp đang xem xét nhiều giải pháp để rút ngắn hoặc đa dạng hóa các chuỗi cung ứng này thông qua các địa điểm sản xuất thay thế như Việt Nam. 

Giám đốc Điều hành Danh mục Dự án WB cho rằng, có hai xu hướng mới đã xuất hiện từ đại dịch Covid-19 có liên quan đến lĩnh vực logistics ở Việt Nam.

Đầu tiên là xu hướng tăng tốc của thương mại điện tử và sử dụng các nền tảng kỹ thuật số ở Việt Nam. Doanh nghiệp đang chuyển sang thương mại điện tử và các nền tảng kỹ thuật số để tiếp cận người tiêu dùng, đặc biệt là trong thời kỳ giảm hoạt động và hạn chế di chuyển.

Trong giai đoạn vừa qua, người tiêu dùng cũng đang trở nên quen thuộc hơn với các công cụ kỹ thuật số khi mua hàng hóa và dịch vụ. Trong một cuộc khảo sát của WB vào tháng 6, gần 50% doanh nghiệp cho biết đã tăng cường sử dụng các nền tảng kỹ thuật số như một giải pháp để ứng phó với đại dịch Covid-19. Khi xu hướng thương mại điện tử tăng tốc, nhu cầu về các dịch vụ logistics và giao hàng tận nơi sẽ ngày càng tăng.

Xu hướng thứ hai là sử dụng giải pháp công nghệ số để nâng cao hiệu quả và cung cấp những dịch vụ mới cho khách hàng. Khi áp dụng công nghệ số, doanh nghiệp có thể cung cấp khả năng hiển thị và truy xuất nguồn gốc hàng hóa cũng như giao tiếp với khách hàng trực tuyến.

Với 2 xu hướng mới xuất hiện này, bà Stefanie Stallmeister lưu ý, các doanh nghiệp đang đứng trước đòi hỏi phải đầu tư vào công nghệ như Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, tự động hóa và phân tích dữ liệu. Ngoài ra, các công nghệ mũi nhọn, như robot, máy bay không người lái và phương tiện tự hành cũng có thể làm tăng hiệu quả của các nhà cung cấp dịch vụ logistics.

Cung cấp thêm thông tin về mức độ cải thiện  logistics của Việt Nam, đại diện WB cho biết, trong những năm qua, Việt Nam đã cải thiện Chỉ số hoạt động logistics (LPI), từ thứ hạng 53 trong năm 2010 lên 39 vào năm 2018, và xếp hạng cao hơn so với một số nước láng giềng trong khu vực như Malaysia, Indonesia và Philippines, nhưng xếp sau Thái Lan, Singapore, Trung Quốc và Hồng Kông.

Tuy nhiên, trong cuộc khảo sát LPI năm 2018, nhiều doanh nghiệp cho biết Việt Nam có mức phí và lệ phí cao hơn so với mức trung bình của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương. Ví dụ, 80% người trả lời khảo sát nói rằng Việt Nam có mức phí vận tải đường bộ cao hoặc rất cao so với mức trung bình của khu vực là 40%. Tương tự, 40% người trả lời khảo sát cho biết Việt Nam có phí cảng và sân bay cao hoặc rất cao so với mức trung bình khu vực là 30-35%.

Việt Nam cũng bị xếp hạng thấp về hiệu quả của cảng biển và xếp thứ 83 trong số 141 quốc gia về hiệu quả dịch vụ cảng biển, và xếp thứ 103 về hiệu quả của dịch vụ vận tải hàng không và chất lượng cơ sở hạ tầng đường bộ trong Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019.

Do đó, theo bà  Stefanie Stallmeister, vẫn còn nhiều việc cần làm để nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực logistics của Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế toàn cầu, với EVFTA, CPTPP và RCEP vừa được ký kết. 

Tin liên quan
Tin khác