Ngân hàng
Năm 2020: Ngân hàng bị cấm chia cổ tức tiền mặt nếu còn nợ xấu tại VAMC
Hà Tâm - 04/01/2020 15:07
Từ ngày 14/2/2020, tổ chức tín dụng bán nợ nhận trái phiếu đặc biệt không chia cổ tức bằng tiền mặt cho đến khi trái phiếu đặc biệt được thanh toán.
Ngân hàng phải nhanh chóng dọn nợ tại VAMC nếu muốn chia cổ tức tiền mặt.

Cấm chia cổ tức tiền mặt khi còn nợ tại VAMC

Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông 32/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).

Theo đó, Thông tư 32 quy định, tổ chức tín dụng bán nợ nhận trái phiếu đặc biệt không chia cổ tức bằng tiền mặt cho đến khi trái phiếu đặc biệt được thanh toán. Trừ trường hợp tổ chức tín dụng bán nợ nhận trái phiếu đặc biệt có thời hạn trên 5 năm hoặc tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc gia hạn thời hạn trái phiếu đặc biệt không được chia cổ tức để tạo nguồn xử lý nợ xấu cho đến khi trái phiếu đặc biệt có thời hạn trên 5 năm hoặc trái phiếu đặc biệt đã gia hạn được thanh toán.

Trước khi NHNN ban hành chính thức Thông tư này, tại ĐHĐCĐ năm 2019, một số ngân hàng thương mại cổ phần cũng chỉ đưa ra phương án chia cổ tức bằng cổ phiếu. Giải trình với cổ đông, lãnh đạo các ngân hàng  cho hay, do chưa xử lý được nợ xấu tại VAMC nên ngân hàng không được Ngân hàng Nhà nước đồng ý chia cổ tức tiền mặt. 

Tính đến thời điểm hiện tại, mới có 10 ngân hàng hoàn tất việc mua lại nợ xấu trước thời hạn tại VAMC. Kế hoạch dọn sạch nợ xấu tại VAMC được nhiều ngân hàng đưa ra vào năm 2020 này.

Bổ sung quy định mua, bán nợ bằng ngoại tệ

Ngoài ra, Thông tư 32 cũng bổ sung quy định về quản lý ngoại hối trong hoạt động mua, bán nợ của VAMC. Theo đó, VAMC, các tổ chức tín dụng bán nợ và các bên liên quan phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam khi thực hiện mua, bán nợ và thu hồi khoản nợ được mua.

Cụ thể, khi thực hiện mua, bán nợ với Công ty Quản lý tài sản, bên mua nợ sử dụng tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam để thực hiện thanh toán cho VAMC trong trường hợp sử dụng đồng tiền mua nợ là đồng Việt Nam. Bên mua nợ là người không cư trú sử dụng tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hoặc tài khoản ngoại tệ của bên mua nợ tại nước ngoài để thực hiện thanh toán cho Công ty Quản lý tài sản tiền mua nợ và các chi phí liên quan theo hợp đồng mua, bán nợ đối với trường hợp sử dụng đồng tiền mua nợ là ngoại tệ.

Khi thu hồi nợ từ các khoản nợ được mua từ Công ty Quản lý tài sản, số tiền thu hồi nợ phải được chuyển vào 01 (một) tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc 01 (một) tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ (đối với trường hợp khoản nợ được thu hồi bằng ngoại tệ) của bên mua nợ mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.

Trường hợp mua, bán khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay ra nước ngoài hoặc nợ phát sinh do trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh cho bên được bảo lãnh là người không cư trú thì bên bán nợ (VAMC hoặc tổ chức tín dụng bán nợ cho VAMC) phải thực hiện đăng ký thay đổi khoản cho vay ra nước ngoài, khoản thu hồi nợ bảo lãnh theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối đối với việc cho vay ra nước ngoài và thu hồi nợ bảo lãnh cho người không cư trú. Bên mua nợ phải thực hiện đăng ký kế hoạch thu hồi nợ theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối đối với việc thu hồi nợ nước ngoài phát sinh từ nghiệp vụ mua, bán nợ.

Điều kiện nợ xấu được VAMC mua lại

Thông tư 32 cũng quy định cụ thể hơn về điều kiện các khoản nợ xấu được VAMC mua lại. Theo đó, VAMC chỉ mua khoản nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt nếu đáp ứng đủ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện như: có tài sản bảo đảm; khách vay còn tồn tại; giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu hoặc các khoản nợ xấu của một khách hàng vay hoặc các khoản nợ xấu của một nhóm khách hàng vay theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Thông tư này vào thời điểm bán nợ không thấp hơn 3 tỷ đồng đối với nhóm khách hàng vay và khách hàng vay là tổ chức; không thấp hơn 1 tỷ đồng đối với khách hàng vay là cá nhân hoặc mức khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định.

Ngoài ra, khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ, trong đó phải đảm bảo tối thiểu 3 yêu cầu.

Thứ nhất, hợp đồng tín dụng hoặc thỏa thuận cho vay, hợp đồng ủy thác cấp tín dụng, hợp đồng mua bán nợ, hợp đồng mua, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, hợp đồng bảo đảm phải thể hiện rõ các quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng.

Thứ hai, khoản nợ xấu chưa dùng để bảo đảm nghĩa vụ của tổ chức tín dụng.

Thứ ba, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật tại thời điểm mua, bán nợ.

Công ty Quản lý tài sản căn cứ quy định của pháp luật liên quan để xác định khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ.

Tin liên quan
Tin khác