Ngân hàng
Trái phiếu doanh nghiệp, nợ xấu bất động sản và mối quan tâm của Quốc hội
T.L - 22/05/2022 07:29
Cảnh báo vỡ nợ chéo từ quả bom trái phiếu, các chiêu trò trên thị trường trái phiếu, nợ xấu trong lĩnh vực này... là những vấn đề nóng nhất lĩnh vực ngân hàng tuần qua.

Cảnh báo vỡ nợ chéo từ “quả bom” trái phiếu - Kỳ 1: Bom nợ âm ỉ từ những hợp đồng ma quái  

Thị trường TPDN đã có sự phát triển thần tốc thời gian qua, nhất là giai đoạn 2018-2021. Chính sách siết tín dụng bất động sản năm 2018 của Ngân hàng Nhà nước cùng hành lang pháp lý về TPDN ngày càng thông thoáng khiến bộ ba doanh nghiệp bất động sản - ngân hàng - công ty chứng khoán bắt tay nhau phát hành, lách luật đưa một lượng trái phiếu khủng đến tay nhà đầu tư cá nhân.

Kể từ đây, TPDN “nhiều không” trăm hoa đua nở: không tài sản đảm bảo, không xếp hạng tín nhiệm, không bảo lãnh thanh toán, không kèm chứng quyền, không phương án trả nợ…

Huy động ngàn tỷ đồng dễ dàng, lãi suất cao, hoa hồng khủng khiến thị trường TPDN tăng trưởng bùng nổ.

Hàng loạt con số biết nói phản ánh sức nóng của thị trường: tốc độ tăng trưởng kép TPDN giai đoạn 2018-2021 trên 50%; riêng năm 2021, khối lượng TPDN phát hành đã lên tới 658.000 tỷ đồng, cao hơn tổng khối lượng TPDN phát hành cả giai đoạn 2011-2018.    

Chỉ bằng vài cú nhấp chuột, bất kỳ cá nhân nào cũng có thể tìm mua TPDN phát hành riêng lẻ trên mạng xã hội, lãi suất cao gấp 2-3 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Trong khi đó, là một công cụ nợ cao cấp, TPDN riêng lẻ chỉ được phép bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp - những người có thể đánh giá được mức độ rủi ro của trái phiếu.

Theo quy định, nhà đầu tư chứng khoán cá nhân chuyên nghiệp là người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán; có danh mục chứng khoán niêm yết là 2 tỷ đồng tại thời điểm xác định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; có thu nhập chịu thuế năm gần nhất tối thiểu 1 tỷ đồng.

Tuy nhiên, hoạt động mua bán TPDN riêng lẻ ở nước ta trong thời gian qua diễn ra như một “chợ trời”. Đó là nơi các chiêu trò lách luật, các bản hợp đồng ma được lén lút trao nhau dưới gầm bàn.

Chị Trần Thanh Hà (Đống Đa, Hà Nội) cho hay, mới đây, chị được một nhân viên của Công ty cổ phần Đầu tư WING mời chào mua trái phiếu Ngọc Thiên trên ứng dụng My Bond với lãi suất hơn 12%/năm, cao gấp đôi lãi suất tiết kiệm. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ hợp đồng mua trái phiếu, chị Hà tá hỏa bởi sự ngoắt ngoéo của hợp đồng.

Theo đó, dù WING là đơn vị đứng ra chào bán trái phiếu, song pháp nhân đứng ra ký hợp đồng với chị Hà lại là Công ty cổ phần Thịnh Phát Hưng Yên. Hình thức của hợp đồng là “Hợp đồng Đầu tư trái phiếu”, song nội dung lại là hợp đồng góp vốn, ủy thác đầu tư. Các điều khoản hợp đồng quy định, số tiền chị Hà chuyển cho Thịnh Phát Hưng Yên là khoản góp vốn để mua TPDN. Sau khi ký kết, nhà đầu tư sẽ được cấp một tờ giấy xác nhận giao dịch mua trái phiếu, thay vì chứng nhận trái chủ.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, chị Phan Thu Hiền, giáo viên Trường Quốc tế Hà Nội cũng cho hay, dù không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, nhưng chị vẫn có thể dễ dàng mua TPDN của Tập đoàn bất động sản X. ngay trên ứng dụng bán trái phiếu của tập đoàn này. Theo tài liệu chị Hiền cung cấp, hợp đồng mà công ty đưa chị ký tên thực chất là hợp đồng góp vốn với trái chủ để mua TPDN, chứ không phải là hợp đồng mua TPDN từ đơn vị phân phối.

Theo tìm hiểu của phóng viên, ma trận phát hành TPDN của Tập đoàn X. như sau: Công ty X1 phát hành TPDN riêng lẻ; tài sản đảm bảo là cổ phần của Công ty X2; đơn vị bảo lãnh là Công ty X3; đơn vị đứng ra mua lại lô trái phiếu là Công ty đầu tư tài chính Y. Đương nhiên, cả X1, X2, X3 và Y đều là thành viên của Tập đoàn X.

Sau đó, trái chủ Y sẽ bán lại toàn bộ số TPDN mà công ty này sở hữu cho nhà đầu tư tư nhân theo hình thức hợp tác đầu tư, hợp tác góp vốn, tương tự cách thức mà Tân Hoàng Minh thực hiện. Với chiêu thức này, 5 năm qua, Tập đoàn X. đã huy động thành công hàng chục ngàn tỷ đồng TPDN riêng lẻ trên thị trường, tăng vốn với tốc độ tên lửa.

Thế nhưng, doanh nghiệp phát hành không phải là tội đồ duy nhất nhất khiến quả bom TPDN phình to. Hoa hồng béo bở từ phân phối TPDN 3-5% khiến các ngân hàng, công ty chứng khoán lao vào bán trái phiếu, thậm chí cố tình mập mờ thông tin để “dụ” nhà đầu tư. 

Năm 2021, riêng lượng TPDN mà công ty chứng khoán sang tay cho nhà đầu tư cá nhân là trên 90.000 tỷ đồng. Còn tính trên toàn thị trường, theo Bộ Tài chính, cuối năm 2021, tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân thứ cấp nắm giữ TPDN là 23,6% dư nợ phát hành (dù tỷ lệ này trên thị trường sơ cấp chỉ từ 5-8%). Nếu tính cả số nhà đầu tư mua TPDN dạng hợp tác đầu tư, góp vốn... không có tên trong sổ lưu ký, thì con số này còn có thể còn cao gấp đôi.

“Theo tôi biết, nhiều ngân hàng, công ty chứng khoán mua TPDN chủ yếu chỉ để phân phối lại cho người dân thông qua mạng lưới của mình. Hoa hồng bảo lãnh, phân phối lên tới 3-5% khiến nhiều ngân hàng, công ty chứng khoán đua bán TPDN tới nhà đầu tư cá nhân. Rất nhiều người dân khi đi gửi tiền vào ngân hàng đều được mời mua TPDN với lãi suất cao gấp đôi”, ông Huỳnh Anh Tuấn, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đông Á cho hay.

Nhờ lợi thế vừa đá bóng (bán TPDN), vừa thổi còi (cấp giấy chứng nhận nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp cho cá nhân), công ty chứng khoán dễ dàng lách luật, phù phép nhà đầu tư cá nhân thành nhà đầu tư chuyên nghiệp. Dưới sự tiếp tay của ngân hàng, công ty chứng khoán, TPDN riêng lẻ bỗng chốc biến thành TPDN đại chúng khi sang tên tới hàng vạn nhà đầu tư cá nhân.

Thị trường TPDN méo mó không chỉ do sự gian dối của doanh nghiệp phát hành, lòng tham lãi suất cao của nhà đầu tư cá nhân, sự hám lợi hoa hồng khủng của doanh nghiệp phát hành, mà do cả lỗi của đơn vị tư vấn.

Lẽ ra, đơn vị tư vấn phải là phễu lọc đầu tiên để thẩm định trái phiếu có tốt không, có đủ điều kiện phát hành không. Tuy vậy, mờ mắt về chi phí tư vấn kếch xù, nhiều công ty chứng khoán ra sức chiều chuộng nhà phát hành, xây dựng hồ sơ chào bán trái phiếu và công bố thông tin dựa trên các thông tin có lợi cho doanh nghiệp phát hành, bỏ qua các thông tin rủi ro. Những cú bắt tay dưới gầm bàn của doanh nghiệp phát hành yếu kém với nhà tư vấn thiếu trách nhiệm là nguyên nhân khiến trái phiếu rác tràn ngập thị trường.

Lòng tham và sự thiếu chuyên nghiệp của tất cả chủ thể tham gia thị trường khiến thị trường TPDN trở thành “chợ trời” thượng vàng hạ cám 5 năm qua.

Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nói gì về nợ xấu trái phiếu?

Nợ xấu của lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu và đầu tư, kinh doanh trái phiếu chiếm tới 19,57% và 2,87% tổng dư nợ tín dụng của từng lĩnh vực khiến cơ quan của Quốc hội lo ngại.

Ngày 20/5/2022, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã hoàn thành báo cáo đánh giá việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và thẩm tra Tờ trình về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết này.

Đây là một trong những nội dung sẽ được Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ ba, khai mạc sáng 23/5/2022.

Báo cáo thẩm tra đánh giá, với những đóng góp của Nghị quyết số 42, trong giai đoạn 2017-2021, hơn 750 nghìn tỷ đồng nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đã được xử lý. Nợ xấu cơ bản được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu nội bảng được duy trì ở mức dưới 2% (đạt mục tiêu đặt ra khi ban hành Nghị quyết là duy trì dưới 3%), trong đó tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD đến 31/12/2021 là 1,49%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết (tại thời điểm 31/7/2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD là 2,51%); nhiều TCTD có tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết.

Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra cho rằng, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro (riêng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực tại thời điểm 31/12/2021 là 251,3 nghìn tỷ đồng và số chưa xử lý còn 412,67 nghìn tỷ đồng).

Một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42, theo đánh giá của Uỷ ban Kinh tế còn chưa thực sự phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại Tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao (47% tổng nợ xấu được xử lý).

Đặc biệt, cơ quan thẩm tra lưu ý, một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%). 

Đáng chú ý là nợ xấu của lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu và đầu tư, kinh doanh trái phiếu chỉ chiếm lần lượt là 1,13% và 0,01% so với nợ xấu của toàn hệ thống nhưng chiếm tới 19,57% và 2,87% tổng dư nợ tín dụng của từng lĩnh vực.

"Đây là những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhất là trong điều kiện năng lực chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế", cơ quan thẩm tra báo cáo Quốc hội.

 Với đề xuất kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế thống nhất. Nhưng có ý kiến đề nghị thuyết minh kỹ hơn về sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng của Nghị quyết vì còn có những khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để; đồng thời cần dự liệu những vấn đề có thể phát sinh khi kéo dài thời hạn thực hiện thí điểm, tránh việc không thể giải quyết dứt điểm đối với các khoản nợ xấu.

Các ngân hàng đang đầu tư trái phiếu doanh nghiệp như thế nào?

 Ngày 20/5, Chính phủ đã có báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, tình hình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 gửi đến Quốc hội.

Tại đây, Chính phủ đã giải trình và bổ sung thông tin, số liệu về một số nội dung theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 11, trong đó có nợ xấu tiềm ẩn, những rủi ro đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp; tỷ lệ tín dụng bất động sản hiện nay cũng như việc mua, bán, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của chính tổ chức tín dụng (TCTD) và các công ty chứng khoán thành viên.

Về tỷ lệ tín dụng bất động sản hiện nay, liên quan đến kênh cung ứng vốn từ tín dụng ngân hàng trong nước, theo báo cáo, trong những năm qua, dư nợ tín dụng bất động sản luôn có sự tăng trưởng nhưng mức tăng đã giảm (từ 26,76% năm 2018 xuống 15,37% năm 2021); tỷ trọng khoảng 19-20% tổng dư nợ nền kinh tế.

Đồng thời, tỷ trọng dư nợ tín dụng phục vụ mục đích tiêu dùng, tự sử dụng bất động sản cao hơn mục đích kinh doanh bất động sản. Bên cạnh đó, dư nợ tín dụng đối với phân khúc nhà ở luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 60% dư nợ tín dụng bất động sản) cho thấy ngành ngân hàng tập trung nguồn vốn cho vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu về nhà ở của người dân.

Cụ thể, đến thời điểm 31/3/2022, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản là 2.240.166 tỷ đồng, tăng 7,87% so với 31/12/2021, chiếm tỷ trọng 20,23% tổng dư nợ tín dụng chung; trong đó, dư nợ tín dụng tiêu dùng/tự sử dụng tăng 7,75%, chiếm tỷ trọng 65,01% dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản, dư nợ tín dụng kinh doanh bất động sản tăng 8,1%, chiếm tỷ trọng 34,99%.

Về đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của TCTD, Chính phủ cập nhật đến cuối tháng 3/2022, tổng số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp là 326,5 nghìn tỷ đồng, tăng 19,0% so với cuối năm 2021 (chiếm tỷ trọng 2,95% tổng dư nợ tín dụng). Trong đó, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp với mục đích xây dựng, kinh doanh bất động sản là 124,8 nghìn tỷ đồng, tăng 29,15% so với cuối năm 2021, chiếm tỷ trọng 38,2% trong tổng số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.

Tổng số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp với mục đích tăng quy mô vốn của doanh nghiệp phát hành đến cuối tháng 3/2022 là 101,5 nghìn tỷ đồng (tăng 7,18% so với cuối tháng 12/2021), chiếm 31,6% trong tổng số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của toàn hệ thống.

Báo cáo cũng nêu, trong điều kiện hiện nay, thị trường vốn đã có những bước phát triển nhưng nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống các TCTD; do đó, việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển minh bạch, hiệu quả giúp cân bằng, hài hòa theo hướng vốn ngắn hạn dựa vào hệ thống ngân hàng, vốn trung dài hạn dựa vào thị trường vốn, tạo thuận lợi cho hệ thống TCTD phát triển lành mạnh, hiệu quả cũng như giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đầu tư, sản xuất kinh doanh với nguồn vốn trung dài hạn.

Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước kiến nghị các Bộ, ngành tiếp tục rà soát tổng thể về hành lang pháp lý đối với hoạt động phát hành, chào bán trái phiếu doanh nghiệp nhằm kiểm soát chặt chẽ các điều kiện của doanh nghiệp phát hành, đảm bảo phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.

Ứng xử với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ Ban kinh tế của Quốc hội cho rằng, nên nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp để thị trường tự sàng lọc.

Theo ông Hiếu, việc hoàn thiện khung pháp luật sắp tới có 2 vấn đề.

Thứ nhất, thị trường vốn là kênh có sự chia sẻ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp, chứ không thể có an toàn tuyệt đối. Thủ tướng Chính phủ đã nói rất nhiều lần, đó là khó khăn thì phải san sẻ, lợi ích cùng hưởng.

Thứ hai, trong biện pháp can thiệp thị trường TPDN, việc giám sát để bảo đảm tuân thủ pháp luật là điều phải làm. Nhưng nếu đặt thêm các chính sách, biện pháp can thiệp thì cũng phải tính đến việc đôi khi thị trường bị ảnh hưởng nặng do sự can thiệp, cho nên cần hết sức cân nhắc.

Được biết ở thời điểm hiện tại, theo thống kê của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, khi phát hành trái phiếu ở thị trường sơ cấp thì số nhà đầu tư là cá nhân tham gia chỉ có 8,6%, sau đó tất cả các trái phiếu ở thị trường sơ cấp lại được bán cho các đầu tư cá nhân ở thị trường thứ cấp. Do đó việc can thiệp, nên tập trung nhiều ở thị trường thứ cấp, ở đó chủ yếu là các nhà đầu chuyên nghiệp.

Về quy định của pháp luật về nhà đầu tư chuyên nghiệp, theo ông Hiếu, Điều 11 của Luật Chứng khoán, có 2 điểm bất cập.

Thứ nhất, các điều kiện để một cá nhân trở thành nhà đầu tư chứng khoán rất dễ để đạt được về mặt luật pháp nhưng có thể không làm thay đổi bản chất của nhà đầu tư đó. Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp phải là nhà đầu tư có năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán. Điển hình như quy định: Cá nhân nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch có giá trị tối thiểu là 02 tỷ đồng theo xác nhận của công ty chứng khoán tại thời điểm cá nhân đó được xác định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Vậy sau thời điểm đó thì như thế nào? Ông Phan Đức Hiếu nêu vấn đề và dẫn chứng luật pháp nước ngoài: Theo Luật Chứng khoán của Mỹ năm 1933, sửa đổi năm 2010, nhà đầu tư đã được chỉ định thì phải có tài sản là 200.000 USD. Và trong 2 năm liên tiếp phải luôn phải duy trì, chứ không chỉ tại thời điểm đó. Năm 2020, Mỹ lại sửa đổi thêm lần nữa, bổ sung thêm quy định mới về năng lực chuyên môn… Khi đó, nhà đầu tư đáp ứng được điều kiện mới được công nhận là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Thứ hai, Luật Chứng khoán giao cho chính công ty chứng khoán là những người bán hàng. Có nghĩa là họ mua ở thị trường sơ cấp, rồi bán cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Quy định như thế sẽ có xung đột, vì nếu họ muốn bán hàng, họ sẽ tìm mọi cách để xác nhận người mua đủ tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Từ những lập luận nêu trên, ông Hiếu đề nghị Chính phủ cho xem xét, rà soát Điều 11 của Luật Chứng khoán và Nghị định 155/2020 liên quan điều kiện của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nếu như nâng được chất lượng thực sự của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp sẽ có một lợi ích rất dài hạn. Đây là công cụ thị trường để tự họ sàng lọc mà không cần can thiệp về mặt chính sách.

Về dài hạn, ông Hiếu cho rằng cần nâng cao chất lượng của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Do vậy, không có gì khác ngoài việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.

Ông Hiếu cho biết, Nghị quyết 02 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh được cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao, có bộ chỉ số bảo vệ nhà đầu tư, chính là chỉ số nâng cấp chất lượng quản trị doanh nghiệp. Do đó, cần thực thi mạnh mẽ Nghị quyết 02 của Chính phủ.

Điều tiết thị trường trái phiếu doanh nghiệp hợp lý để doanh nghiệp không lỡ nhịp phục hồi

Trong 5 năm gần đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân 46%/năm. Tính đến cuối năm 2021, thị trường có gần 1,2 triệu tỷ đồng được doanh nghiệp huy động qua thị trường trái phiếu, chiếm khoảng 12% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, tương đương khoảng 15% GDP sau điều chỉnh. 

Mặc dù có tốc độ tăng trưởng như vậy, nhưng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam chỉ chiếm khoảng 15% GDP, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực như Malaysia (56% GDP), Singapore (38% GDP), Thái Lan (25% GDP).

Trong 3 tháng đầu năm nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang có dấu hiệu hạ nhiệt vì một số chính sách mới, làm giảm cơ hội tiếp cận vốn của doanh nghiệp, qua đó, làm chậm nhịp phục hồi và phát triển và lỡ nhịp chương trình phục hồi phát triển kinh tế xã hội 2022-2023 của quốc gia.

Dẫn số liệu nghiên cứu của ADB, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho biết, thị trường trái phiếu Việt Nam phát triển tương đối nhanh. Đến hết tháng 3 năm nay, tổng dư nợ thị trường trái phiếu đạt 3,3 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 37,4% GDP, trong đó dư nợ TPDN tương đương 14,8% GDP.

Tuy nhiên, so với các nước Châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, quy mô thị trường TPDN của Việt Nam tuy nhanh nhưng vẫn còn nhiều dư địa để phát triển bởi nhu cầu về vốn trung và dài hạn rất lớn trong thời gian tới.

Vấn đề đặt ra hiện nay là trong các năm qua, thị trường TPDN phát triển tương đối nóng nên cần có giải pháp để kiểm soát. Trong 4 tháng đầu năm nay, quy mô phát hành TPDN đã giảm, đặc biệt TPDN do các doanh nghiệp bất động sản phát hành đã giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy thị trường đã được kiểm soát chặt chẽ và đã giảm nhiệt.

Về vấn đề pháp lý, theo TS. Cấn Văn Lực, thực tế pháp lý đã phát triển tương đối nhanh để đáp ứng nhu cầu thị trường TPDN nhưng thị trường vẫn đòi hỏi những quy định pháp lý cao hơn.

TS. Cấn Văn Lực cũng cho biết thị trường TPDN Việt Nam đang rất tiềm năng. Theo Chiến lược tài chính đến năm 2030, dư nợ trái phiếu cần đạt quy mô 47% GDP vào năm 2025 (trong đó, TPDN đạt 20% GDP) và 58% GDP năm 2030 (trong đó, TPDN đạt 25% GDP). Hơn nữa, triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn được đánh giá tốt, đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5-7% đến năm 2030 (NQ Đại hội 13).

Không những vậy, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng nên rất cần vốn trung- dài hạn (ngoài vốn tín dụng ngân hàng, từ nay đến 2030, mỗi năm Việt Nam cần huy động 700.000 – 1 triệu tỷ đồng vốn trung- dài hạn). 

TS. Cấn Văn Lực cho rằng, hệ thống ngân hàng thương mại đang quá sức trong cho vay vốn dài hạn. Do đó, kênh huy động vốn qua thị trường trái phiếu là vô cùng quan trọng, vấn đề là điều tiết thị trường TPDN như thế nào để phát triển lành mạnh hơn.

Giải pháp để lành mạnh hóa thị trường, theo chuyên gia này, trước mắt cần giải quyết dứt điểm các vụ việc vừa qua để củng cố niềm tin nhà đầu tư cũng như tránh tạo tiền lệ xấu.

Đồng thời cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp: sớm sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP về phát hành TPDN riêng lẻ, Nghị định 156/2020 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; rà soát Luật chứng khoán 2019 tiến tới sửa đổi, trong đó nâng chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp… Đặc biệt, cần cân nhắc mức độ phù hợp về quy định TSĐB, bảo lãnh phát hành, phân phối trái phiếu.

Bên cạnh đó, cần có quy định về định hạng tín nhiệm nhằm giúp nhà đầu tư dễ dàng xác định chất lượng doanh nghiệp, mức độ rủi ro của trái phiếu phát hành. Theo đó, cần xác định những trường hợp bắt buộc, trường hợp khuyến khích xếp hạng tín nhiệm; cần có quy định đảm bảo các công ty định hạng tín nhiệm có đủ năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp; nên xem xét cấp phép thành lập thêm 2-3 công ty định hạng khác, ngoài 2 công ty đã có; Làm rõ vai trò, trách nhiệm của tổ chức xếp hạng tín nhiệm và các trung gian tài chính liên quan.

Không những thế, cần có giải pháp tăng chất lượng TPDN được phát hành: xem xét quy định cụ thể hơn về quy mô, tần suất, điều kiện phát hành; hoạt động phát hành ra công chúng cần được hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi hơn (đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ …).

Đặc biệt, cần hoàn thiện hạ tầng của thị trường TPDN như thiết lập thị trường thứ cấp tập trung đối với TPDN, qui định áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế; nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu… Đồng thời, tiếp tục phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ như là một chuẩn định hạng đối với TPDN.

Ngoài ra, cần phát triển nền tảng nhà đầu tư chứng khoán đa dạng, chuyên nghiệp; khuyến khích phát triển các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư, quỹ mở, quỹ hưu trí…; khuyến khích hình thức ủy thác đầu tư; cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân thông qua tăng cường giáo dục tài chính cho người dân và những nhà đầu tư mới; yêu cầu minh bạch thông tin cho nhà đầu tư, đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhà đầu tư cá nhân…, giúp họ nhận diện các rủi ro, có thêm các lựa chọn đầu tư tùy vào khẩu vị rủi ro, từ đó tránh những hệ lụy không đáng có... 

Ngân hàng nào sẽ được nới room tín dụng?

Tín dụng tăng mạnh 4 tháng đầu năm 2022 nên nhiều ngân hàng đã chạm trần hạn mức (room) tín dụng được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp hồi đầu năm và đang trình xin nới thêm room.

Thực tế cho thấy, tín dụng tính tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm nay khi NHNN cho biết, đến ngày 25/4 tăng tới 6,75% so với cuối năm 2021 (tương đương với mức tăng 16,4% so với cùng kỳ).

Vì thế, mới đến hết quý I/2022, nhưng nhiều nhà băng đã sớm chạm trần tín dụng được NHNN cấp hồi đầu năm nay và đang trình xin được nới thêm room.

Trong đó, với các ngân hàng sẽ tiếp nhận bắt buộc một tổ chức tín dụng (TCTD) khác được cho là có khả năng được cấp thêm hạn mức tín dụng cao, với mức room tín dụng ước tính khoảng 30-35%.

Chẳng hạn các chuyên gia của Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho rằng, Ngân hàng Quân Đội (MB) có thể sẽ được nới 'room' tín dụng lên 30-35% nhờ tiếp nhận chuyển giao bắt buộc một tổ chức tín dụng.

Mặc dù tên tổ chức tín dụng này không được MB nêu cụ thể, song nhiều thông tin rò rỉ trước đó cho thấy, tổ chức tín dụng này là OceanBank.

Với việc tiếp nhận bắt buộc tổ chức tín dụng, nhiều khả năng MB sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao với mức room tín dụng ước tính khoảng 30-35%.

Đây sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho MB bứt tốc trong bối cảnh nhu cầu tín dụng tăng cao khi nền kinh tế thoát khỏi tác động của đại dịch COVID-19.

BVSC cho rằng, với các lợi thế như làm chủ công nghệ từ mạng lõi ngân hàng cho đến ứng dụng, hệ thống sản phẩm cũng như quản trị nhân sự, quản trị rủi ro,... nhiều khả năng MB sẽ tái cơ cấu thành công tổ chức tín dụng tiếp nhận bắt buộc.  

Đến hết quý I/2022, tín dụng VCB tăng 7% (đến nay 29/4 đạt 8,8%) so với mức tín dụng đã được cấp chính thức là 10% (còn hạn mức tín dụng dự kiến cả năm 2022 là 15% tùy thuộc NHNN).

Như vậy, chỉ riêng quý đầu năm nay, VCB đã sử dụng gần hết room tín dụng đã được cấp và đang chờ được NHNN nới thêm room. 

Trong khi đó, ACB đã nộp đơn xin NHNN cấp thêm hạn mức tín dụng và kỳ vọng có thể có được room mới từ cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 năm nay để có thêm dư địa cho vay.

ACB cho biết, đến cuối quý I/2022, tổng dư nợ cho vay của ACB đạt 380.000 tỷ đồng (tăng 5% so với đầu năm 2022) và 4 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng đạt mức 8% so với đầu năm nay, với động lực chính đến từ cho vay ngắn hạn đối với những phân khúc khách hàng chiến lược (cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ).

Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn khách hàng tăng đẩy tín dụng đi lên trong những tháng đầu năm 2022. Vấn đề còn lại là hạn mức tín dụng của các ngân hàng được cấp bao nhiêu trong năm nay.

Nhưng khác với những năm trước, năm 2022, NHNN không còn thông tin về hạn mức tín dụng được cấp cho các nhà băng mà chỉ cho biết, mục tiêu tăng trưởng tín dụng của ngành năm nay ở mức 14% có điều chỉnh linh hoạt.

Trong khi đó, với kế hoạch tăng vốn điều lệ được trình tại hầu hết các ngân hàng, ngoại trừ Sacombank và Techcombank.

Việc tăng vốn điều lệ sẽ được hoàn thành thông qua việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu (dao động từ 11,9%-50%) và kế hoạch phát hành cổ phiếu mới (BIDV, LienVietPostBank, VPBank, SHB và MB) cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng cho vay.

Ngoài ra, kế hoạch lợi nhuận trước thuế năm 2022 ở hầu hết các ngân hàng khá khả quan, trung bình tăng 25-30% so với cùng kỳ, bất chấp xu hướng tăng của lãi suất huy động và việc siết trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản của Chính phủ nên kỳ vọng nhiều vào tăng trưởng tín dụng.

Kiểm soát chặt tín dụng vào bất động sản đầu cơ

Dư nợ tín dụng vào lĩnh vực bất động sản vẫn tăng trưởng trong các năm qua, nhưng được cho là không quá “nóng”.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến ngày 31/3/2022, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 783.942 tỷ đồng, tăng khoảng 84.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2021 (tương ứng mức tăng 12%). Trong đó, tỷ trọng cho vay kinh doanh bất động sản chiếm khoảng 7% tổng dư nợ tín dụng - mức đã được duy trì từ cuối năm ngoái đến nay và được đánh giá là an toàn.

Ông Nguyễn Mạnh Quân, quyền Tổng giám đốc ABBank cho hay, tỷ lệ cho vay bất động sản của Ngân hàng chỉ khoảng 6%; cho mua nhà ở khoảng 17%. Nợ xấu liên quan đến bất động sản và xây dựng cũng ở mức 0,1-0,15%, được theo dõi và giám sát chặt chẽ nên không gặp khó khăn về rủi ro tiềm ẩn.

Theo bà Nguyễn Đức Thạch Diễm, Tổng giám đốc Sacombank, dư nợ cho vay bất động sản của ngân hàng này chỉ chiếm khoảng 22% tổng dư nợ, trong đó cho vay người dân tiêu dùng xây, sửa nhà chiếm đến 60%. Cho vay doanh nghiệp bất động sản chỉ chiếm khoảng 20%, tương đương khoảng 30.000 tỷ đồng, rất nhỏ so với tổng dư nợ gần 400.000 tỷ đồng của Sacombank.

Với OCB, tính đến cuối 2021, tổng dư nợ bất động sản cả kinh doanh và tiêu dùng/mua nhà ở là 32%, trong đó 72% là cho vay để mua nhà, 9% cho vay liên quan đến các dự án bất động sản. Theo ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Ngân hàng, bản chất các dự án bất động sản mà OCB cho vay là phần lớn các dự án của đối tác, muốn tạo nguồn hàng để tiếp tục cho vay bán lẻ. Chiến lược của OCB là tập trung cho khách hàng cá nhân vay mua nhà có giá tầm trung khoảng 1 - 2 tỷ đồng.

Trong khi đó, đối với Techcombank, ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng khẳng định, 5 năm qua, Techcombank không có một vấn đề nào với các khoản vay bất động sản, nợ xấu gần như bằng 0 đối với cho vay bất động sản.

Thực tế, NHNN đang siết đối với tín dụng bất động sản, nhưng khuyến khích đối với tín dụng cho cá nhân vay mua nhà, nhất là đối với những người có thu nhập trung bình. Trong khi đó, phân khúc này đang bị nhiều nơi bỏ quên, nên các nhà băng vẫn tin rằng, đây sẽ là phân khúc tiềm năng với tăng trưởng cho vay. Tuy nhiên, tín dụng chảy vào bất động sản đầu cơ được cho là rủi ro tiềm ẩn lớn và cần thiết “siết” mạnh hơn để tránh quả “bom” nợ xấu.  

TS. Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế - tài chính đưa ra nhận định, khi nói đến “siết” dòng vốn tín dụng vào bất động sản, cần hiểu rõ dòng vốn đó vào phân khúc nào của thị trường. Nếu vốn tín dụng ngân hàng vào phân khúc khách hàng cá nhân có nhu cầu thực sự về nhà ở cũng như các dự án chủ đầu tư hướng vào phân khúc này, có đầu ra tốt, thì ngân hàng sẵn sàng cho vay. Ngược lại, cần thiết kiểm soát dòng tiền vào bất động sản kinh doanh, đầu cơ để hạn chế rủi ro nợ xấu.

TS. Trần Du Lịch cho rằng, vấn đề không phải là dư nợ tín dụng vào lĩnh vực bất động sản nhiều hay ít, mà là nguồn tín dụng bất động sản đó đầu tư vào đâu. Các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh cho vay ở phân khúc khách hàng này, bởi rủi ro được phân tán. Điều đáng lo ngại là tín dụng chảy vào bất động sản kinh doanh, đầu cơ.

Thực tế cho thấy, nhiều năm qua, chủ trương của Chính phủ và NHNN là tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát quy mô tín dụng, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng; đồng thời chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông; tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú cũng cho hay, kiểm soát tín dụng không có nghĩa là dòng tiền không vào bất động sản, mà chỉ hạn chế vào những phân khúc đầu cơ, những dự án rủi ro lớn… Còn các ngân hàng vẫn xét duyệt hồ sơ có nhu cầu vay vốn chính đáng của người dân về nhu cầu ở, mua nhà ở xã hội, các hợp đồng vay đúng chuẩn, đúng quy định.

Mới đây, NHNN công bố, tín dụng tính đến cuối tháng 4/2022 tăng 6,75%, nên khả năng kế hoạch tăng trưởng tín dụng năm 2022 ở mức 14% hoàn toàn có thể đạt được. Tức là các ngân hàng sẽ bơm thêm vào nền kinh tế 1,461 triệu tỷ đồng, lên 11,9 triệu tỷ đồng. Tỷ trọng tín dụng bất động sản giữ nguyên 20%, tương ứng 2,38 triệu tỷ đồng, tăng gần 300.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2021, nhưng chủ yếu cho cá nhân vay mua nhà. 

Dù NHNN cho rằng, không siết tín dụng ở lĩnh vực bất động sản, nhưng đã giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn và nâng hệ số rủi ro. Cụ thể, từ ngày 1/10/2021 đến 30/9/2022, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn giảm về 37%; từ ngày 1/10/2022 đến 30/9/2023 còn 34% và giảm xuống 30% từ ngày 1/10/2023. Đồng thời, từ ngày 1/1/2020, hệ số rủi ro với các khoản vay bất động sản tăng từ mức 150% lên 200%. NHNN cũng áp dụng hệ số rủi ro từ 50% đến 150% đối với các khoản cho vay cá nhân phục vụ nhu cầu mua nhà dưới 4 tỷ đồng.

 

Tin liên quan
Tin khác