Thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp và gây cản trở cho nhà đầu tư nước ngoài. |
Báo cáo đánh giá tác động 1 năm thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thực hiện đã chỉ ra một số thách thức về cải cách thể chế của Việt Nam trong cam kết thực thi EVFTA thời gian tới.
Trước EVFTA, Việt Nam đã tham gia một loạt hiệp định thương mại tự do khác, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, nhờ đó pháp luật Việt Nam đã được sửa đổi để phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế, nên cơ bản đã đầy đủ, ngoại trừ một số hạn chế liên quan đến pháp luật chuyên ngành.
Đến thời điểm này, đã 19 bộ, ngành và 57/63 tỉnh thành đã ban hành kế hoạch thực hiện EVFTA.
Tuy nhiên, theo PGS. TS. Nguyễn Anh Thu, Viện trưởng VEPR, cải cách để đáp ứng đòi hỏi của Hiệp định EVFTA trong thời gian tới sẽ ngày càng khó và chậm hơn, trong khi đó, lợi thế tương đối của Hiệp định này cho Việt Nam đối với các nước trong khu vực sẽ ngày càng giảm đi nhanh hơn.
Ths. Phạm Văn Long, đại diện Nhóm nghiên cứu Báo cáo cho hay: "5 năm trước Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI đã có báo cáo rà soát về hệ thống pháp luật Viêt Nam với các cam kết EVFTA về hải quan và tạo thuận lợi thương mại, sở hữu trí tuệ. Nay chúng tôi tiến hành rà soát lại xem có những thay đổi gì chưa, thì số nội dung chưa được sửa đổi vẫn còn nhiều, trong đó có nội dung về hàng hoá tân trang, hay tồn đọng nhiều nhất là liên quan đến sở hữu trí tuệ".
"Nhìn chung, EVFTA là một trong những FTA thế hệ mới mang lại lợi ích chiến lược cho Việt Nam thông qua sự phát triển quan hệ thương mại - đầu tư đầy tiềm năng với một trong những đối tác lớn nhất và quan trọng nhất của Việt Nam. Thời gian qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được thay đổi tích cực, nhưng do Việt Nam đi theo chiến lược "dễ làm trước, khó làm sau" nên tốc độ cải cách hệ thống pháp luật trong thời gian tới sẽ chậm dần, vì càng lên cao càng khó", ông Long lưu ý.
Để đảm bảo tuân thủ đúng những cam kết trong Hiệp định và tận dụng triệt để các lợi ích từ EVFTA, nhóm nghiên cứu Báo cáo cho rằng, Việt Nam cần khẩn trương rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với các cam kết trong Hiệp định.
Ngoài ra, tăng năng lực điều hành cũng như giám sát đối với các biện pháp kiểm dịch động, thực vật (SPS) Việt Nam nhằm hạn chế vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật tại các nước nhập khẩu....
Bộ Tài chính khẩn trương rà soát, hoàn thiện dự thảo sửa đổi Nghị định 8/2015/NĐ-CP liên quan đến quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, tiêu chí, điều kiện được hưởng cơ chế ưu tiên trong thực hiện thủ tục hải quan và áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại trong kiểm tra thực tế hàng hóa để trình Chính phủ trong thời gian sớm nhất.
Bộ Công thương cần bổ sung quy định về hàng hóa tân trang vào Thông tư hướng dẫn, cụ thể là Thông tư 11/2020 để đáp ứng kịp thời các yêu cầu của Hiệp định EVFTA. Bộ Giao thông - Vận tải cần sớm ban hành Kế hoạch thực hiện EVFTA và hoàn tất các thủ tục tham gia Hiệp định UNECE để giúp các doanh nghiệp kinh doanh phương tiện kinh doanh cơ giới và phụ tùng thiết bị của xe cơ giới tham gia thị trường dễ dàng hơn, tận dụng được các ưu đãi từ EVFTA.
Nhóm nghiên cứu Báo cáo cũng lưu ý về việc giảm bớt thủ tục hải quan và rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Bởi, Việt Nam hiện phải đối mặt với rất nhiều thách thức đến từ bên trong cũng như bên ngoài. Chi phí thương mại của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực ASEAN, các biện pháp phi thuế quan và thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp và gây cản trở cho các đầu tư nước ngoài.
Việt Nam đang và tiếp tục phải cạnh tranh với các quốc gia trong ASEAN trong xuất khẩu hàng hóa sang EU, nhất là nhóm hàng điện tử, linh kiện, dệt may và hoa quả nhiệt đới. Dù Việt Nam và Singapore là 2 quốc gia trong khu vực đã ký FTA với EU, nhưng hiện tại EU đang đàm phán FTA với Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia.
Ông Long cho rằng, Việt Nam đang là nước dẫn đầu trong thương mại hai chiều với EU, có thể coi như cửa ngõ của EU vào Đông Nam Á, Trung Quốc, nhưng cơ hội này sẽ giảm đi nếu các ngành sản xuất của Việt Nam không sớm tận dụng được cơ hội của người đi trước trong thương mại hàng hóa với EU và chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ với các quốc gia này trong tương lai.