Ông Bùi Tuấn Minh, Phó tổng giám đốc Deloitte Việt Nam. |
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam nêu lên thực trạng nhiều doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân lập báo cáo tài chính không trung thực, trốn thuế, nợ thuế kéo dài. Quan điểm của ông về điều này thế nào?
Trong quá trình tư vấn thuế cho doanh nghiệp và nghiên cứu các báo cáo của cơ quan thuế, tôi nhận thấy, thực trạng trên đã và đang diễn ra ở một số doanh nghiệp tư nhân (DNTN), song có xu hướng giảm dần.
Trên thực tế, thuế hay tiết kiệm chi phí thuế chưa bao giờ là mối quan tâm hàng đầu đối với các DNTN trong thời gian đầu thành lập, đặc biệt đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với các doanh nghiệp này, việc có thể tồn tại và tăng doanh thu mới là một trong những ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, khi DNTN tăng trưởng đến một giai đoạn nhất định, những người chủ doanh nghiệp thường xuất hiện 2 luồng quan điểm: hoặc tối ưu hóa chi phí thuế bằng mọi giá, kể cả việc trốn thuế, hoặc tối ưu hóa chi phí thuế trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Nghị quyết 139/NQ-CP ngày 9/11/2018 về Chương trình hành động của Chính phủ về cắt giảm chi phí doanh nghiệp là một trong những biện pháp thiết thực của Chính phủ giúp hiện thực hóa mục tiêu của Trung ương Đảng nêu tại Nghị quyết 10-NQ/TW là tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, cụ thể là tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đến năm 2030 chiếm khoảng 60 - 65% (hiện khoảng 40%).
Cần phải thấy rằng, việc tối ưu hóa chi phí (gồm chi phí thuế mà vẫn đảm bảo tuân thủ pháp luật) nhằm giúp doanh nghiệp có lợi nhuận cao và phát triển bền vững, luôn là quyền lợi chính đáng của DNTN. Đây là xu thế tất yếu và ngày càng được doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ đang đồng hành và quyết tâm thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ DNTN.
Điểm cốt yếu là chúng ta cần phân biệt giữa tối ưu hóa chi phí thuế theo luật và trốn thuế. Hiểu một cách đơn giản, tối ưu hóa chi phí thuế là việc doanh nghiệp vận dụng quy định pháp luật kết hợp với việc lập chiến lược dài hạn về thuế và đặc thù ngành kinh doanh nhằm giảm thiểu chi phí thuế một cách hợp pháp, trong khuôn khổ hệ thống pháp luật kinh tế. Trong khi đó, hành vi trốn thuế là đi ngược lại nguyên tắc này. Lúc này, doanh nghiệp sẵn sàng thực hiện nhiều biện pháp để giảm tối đa chi phí thuế, kể cả hành vi trái pháp luật như lập báo cáo tài chính, báo cáo thuế không trung thực.
Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về một số hành vi trốn thuế phổ biến hiện nay trong các DNTN?
Việc doanh nghiệp có hành vi trốn thuế xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Diễn đàn về Quản lý thuế của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) từ năm 2004 đến nay thường xuyên liệt kê danh sách các hình thức trốn thuế phổ biến của doanh nghiệp. OECD cũng đề xuất mô hình nhận dạng rủi ro tuân thủ (nhận dạng các hình thức, đối tượng trốn thuế và phân loại rủi ro tương ứng) và mô hình quản lý tuân thủ thuế cho các cơ quan thuế các nước tham khảo và áp dụng. Tôi được biết, Việt Nam cũng là một trong những nước đã sớm chuyển đổi theo mô hình quản lý này.
Tại Việt Nam, một số biện pháp điển hình mà DNTN thường sử dụng để trốn thuế có thể kể đến như: kê khai thuế không đầy đủ với sự giúp sức của hai hay thậm chí là nhiều hệ thống sổ sách; mua bán khống, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để ghi nhận tăng chi phí đầu vào; kê khai thiếu thu nhập chịu thuế; đưa các khoản chi phí cá nhân vào chi phí được trừ của doanh nghiệp.
Thực tế, qua công tác quản lý, hàng năm, Tổng cục Thuế và các Cục Thuế địa phương cũng có đánh giá, tổng kết về các hành vi vi phạm pháp luật thuế của doanh nghiệp, trong đó có khối DNTN, để có các biện pháp quản lý thuế phù hợp. Gần đây, Cục Thuế TP.HCM đã công khai các khuyến cáo sai phạm về thuế thường gặp của các doanh nghiệp trên địa bàn theo từng lĩnh vực kinh doanh.
Cụ thể, Cục Thuế TP.HCM đã chỉ ra một số sai phạm phổ biến về thuế như: không lập hóa đơn, kê khai thiếu doanh thu; mua dịch vụ của các bên liên kết nhưng trên thực tế dịch vụ đó không phát sinh; sử dụng hóa đơn doanh nghiệp bỏ trốn; chi tiền lương không đúng với hợp đồng lao động; hạch toán chi phí không tương ứng với doanh thu; hạch toán lãi vay không phục vụ sản xuất - kinh doanh.
Các hành vi trốn thuế sẽ ảnh hưởng đến các DNTN như thế nào, thưa ông?
Theo tôi, những hành vi trốn thuế có thể đem lại lợi ích là các DNTN có thể tăng lợi nhuận trong ngắn hạn, nhưng sẽ không là lựa chọn tối ưu trong dài hạn. Cụ thể, doanh nghiệp có hành vi trốn thuế, theo quy định của Luật Quản lý thuế, có thể bị phạt từ 1-3 lần số tiền trốn thuế; theo Luật Hình sự, doanh nghiệp có thể bị rút giấy phép hoạt động. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến danh tiếng và hoạt động kinh doanh, giá trị của doanh nghiệp sẽ có rủi ro suy giảm. Cơ quan thuế sẽ xếp doanh nghiệp có lịch sử trốn thuế vào nhóm doanh nghiệp có rủi ro cao, ưu tiên đưa vào kế hoạch thanh/kiểm tra thuế hàng năm.
Một số DNTN duy trì 2 hệ thống sổ, một cho mục đích kê khai thuế (lợi nhuận thường thấp hơn nhiều so với lợi nhuận thực), một cho mục đích quản trị nội bộ, có thể dẫn đến hệ luỵ không kiểm soát được công tác tài chính kế toán và rủi ro gian lận tài chính nội bộ. Có những trường hợp nhân viên kế toán đã lợi dụng hệ thống 2 sổ để tư lợi cá nhân bằng cách cố tình hạch toán sai, trong khi chủ doanh nghiệp không kiểm soát được sự trung thực của số liệu kế toán. Tôi đã chứng kiến nhiều giao dịch mua bán doanh nghiệp, khi nhà đầu tư không tin vào hệ thống 2 sổ của doanh nghiệp, do đó chỉ đồng ý mua với giá thấp hơn nhiều giá trị thực của doanh nghiệp.
Do vậy, các nhà lãnh đạo DNTN cần có sự thay đổi quan điểm để hạn chế các hệ luỵ nói trên, trong đó cốt lõi là cần xây dựng một chiến lược thuế, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong dài hạn, kịp thời nắm bắt các cơ hội hợp tác kinh doanh khi doanh nghiệp bước sang chu trình phát triển mới.
Ông nhắc tới việc xây dựng chiến lược thuế như là một giải pháp để DNTN phát triển bền vững. Ông có thể phân tích cụ thể hơn về nội dung này?
Trong phạm vi quản trị thuế, mục tiêu cơ bản mà doanh nghiệp luôn hướng tới là việc tuân thủ quy định pháp luật và tối ưu hóa chi phí thuế, hạn chế việc phát sinh các khoản chi phí ngoài dự tính. Theo tôi, một chiến lược thuế hiệu quả giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu này thường bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất là hệ thống quản trị thuế nội bộ. Tương tự hệ thống quản trị doanh nghiệp, DNTN cần xây dựng hệ thống quản trị thuế nội bộ hiệu quả nhằm thực hiện, hỗ trợ và đánh giá công tác kê khai thuế thường xuyên của doanh nghiệp. Một hệ thống quản trị thuế tốt là hệ thống được thiết kế với vai trò, trách nhiệm rõ ràng của từng phòng ban, bộ phận và có cơ chế giám sát độc lập nhằm xác định, đánh giá rủi ro thuế tiềm tàng.
Tùy theo “khẩu vị” về rủi ro của người lãnh đạo DNTN, doanh nghiệp cần xây dựng quy trình tiêu chuẩn nhằm thường xuyên kiểm định mức độ tuân thủ, đánh giá mức độ rủi ro thuế và các biện pháp hạn chế rủi ro ở mức hợp lý và chấp nhận được.
Thứ hai là lập kế hoạch thuế. DNTN có thể xây dựng kế hoạch thuế ngắn, trung và dài hạn nhằm ước tính và tối ưu hóa chi phí thuế trong tương lai. Sẽ không có công thức chung để xây dựng một kế hoạch thuế hiệu quả, các DNTN cần dựa trên hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành, xu hướng cải cách thuế của Chính phủ, kế hoạch sản xuất - kinh doanh và tình hình thực tế của doanh nghiệp để có kế hoạch thuế phù hợp.
Cuối cùng là kết nối với cơ quan quản lý nhà nước. DNTN có thể xây dựng phương thức kết nối, làm việc hiệu quả và minh bạch với cơ quan thuế, hải quan…, với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình tuân thủ thuế, xử lý các vấn đề thuế chưa rõ ràng một cách nhanh chóng và hiệu quả. DNTN cần chung tay với Chính phủ trong việc đấu tranh, giảm dần, dẫn tới loại bỏ các chi phí không chính thức trong quá trình làm việc với cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài các yếu tố trên, để thực thi thành công và hiệu quả một chiến lược thuế, DNTN cũng cần chú trọng tới việc phát triển đội ngũ nhân sự có đủ năng lực và trình độ, tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ để đem lại hiệu quả cao trong công tác quản trị, vận hành quy trình kiểm soát tuân thủ thuế.
Trên thực tế, có nhiều DNTN khi phát triển đến quy mô nhất định và có kế hoạch hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài để mở rộng đầu tư, đã mời các công ty tư vấn hỗ trợ xây dựng chiến lược thuế hiệu quả, đặt mục tiêu minh bạch và tuân thủ lên hàng đầu, ưu tiên sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tối ưu hoá chi phí thuế trên cơ sở tuân thủ pháp luật là cần thiết và sẽ là thiết thực, hiệu quả thông qua sử dụng các dịch vụ tư vấn thuế chuyên nghiệp.
Ông có khuyến nghị gì với Chính phủ giúp DNTN phát triển bền vững, cụ thể là xây dựng và thực thi chiến lược thuế hiệu quả?
Thứ nhất, Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện giải pháp của Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đảm bảo các chính sách hỗ trợ DNTN được thực thi liên tục và nhất quán nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa các biện pháp tuyên truyền, hỗ trợ để các DNTN được tiếp cận đầy đủ với chủ trương, chiến lược cải cách và chính sách thuế qua các kênh khác nhau, nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao nhận thức, nắm bắt đầy đủ các quy định về thuế, các ưu đãi về thuế để thực thi nghĩa vụ thuế theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục có các biện pháp cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đặc biệt là các khoản chi phí không chính thức như đã đề cập trong Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) hàng năm của VCCI.
Thứ tư, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế chưa rõ ràng, phù hợp, tránh hiểu sai, hiểu theo nhiều nghĩa dẫn đến việc tăng chi phí thuế của doanh nghiệp, đặc biệt là khối DNTN theo đúng tinh thần của Nghị quyết 139/NQ-CP ngày 9/11/2018 về cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp. Ví dụ như quy định về khống chế chi phí lãi vay tại Nghị định 20/2017/NĐ-CP, quy định về bù trừ thu nhập giữa lỗ từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản với lãi từ hoạt động sản xuất - kinh doanh chính.
Thứ năm, nghiên cứu định hướng giảm dần thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo lộ trình phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng có thêm nguồn lực tài chính để tái đầu tư, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế.
(*) Phạm vi bài phỏng vấn này tập trung vào đối tượng là các doanh nghiệp tư nhân được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần trong nước, bao gồm cả các doanh nghiệp gia đình