Trong tháng 11/2022, Vĩnh Hoàn ghi nhận doanh thu giảm 10% so với cùng kỳ về 893 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu cá tra giảm 22% so với cùng kỳ về 480 tỷ đồng; doanh thu bánh phồng tôm giảm 66% về 21 tỷ đồng; và các sản phẩm khác tăng 16% lên 202 tỷ đồng.
Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu có dấu hiệu khó khăn khi thị trường chủ lực là Mỹ giảm 13% so với cùng kỳ về 361 tỷ đồng; châu Âu giảm 20% so với cùng kỳ về 111 tỷ đồng; Trung Quốc giảm 60% so với cùng kỳ về 63 tỷ đồng. Ngược lại, thị trường trong nước tăng 17% so với cùng kỳ lên 230 tỷ đồng; và các thị trường khác tăng 47% so với cùng kỳ lên 129 tỷ đồng.
Nếu so với tháng 10, doanh thu tháng 11 đã giảm 13% về 893 tỷ đồng. Trong đó, thị trường Mỹ giảm 12%, thị trường châu Âu giảm 15%, thị trường Việt Nam giảm 14%, thị trường Trung Quốc tăng 11% và các thị trường khác giảm 21%.
Như vậy, nhìn chung các thị trường lớn ở Mỹ và châu Âu đang cho thấy dấu hiệu lao dốc.
Xuất khẩu thuỷ sản lần đầu tiên tăng trưởng âm trong năm 2022
Ở một diễn biến khác, theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), trong tháng 11/2022, tăng trưởng xuất khẩu thủy sản rơi xuống mức âm lần đầu tiên kể từ đầu năm, giảm hơn 14% so với cùng kỳ năm 2021 và chỉ đạt 780 triệu USD. Đà giảm này chủ yếu do xuất khẩu tôm, cá tra, cá ngừ đều giảm mạnh từ 20% đến 26% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung 11 tháng, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 10,2 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu cá tra tăng 63% so với cùng kỳ, đạt 2,3 tỷ USD; xuất khẩu tôm tăng 14%, đạt 4 tỷ USD; xuất khẩu cá ngừ tăng 40%, đạt 941 triệu USD; xuất khẩu mực, bạch tuộc tăng 30%, đạt 704 triệu USD.
VASEP cho biết, giai đoạn nửa cuối năm, nhu cầu thị trường tụt dốc khiến tăng trưởng xuất khẩu thủy sản chậm lại, thể hiện rõ nhất ở kết quả quý IV.
Dự báo, tháng 12, xuất khẩu thủy sản sẽ giảm sâu hơn nữa và đà sụt giảm này có thể kéo dài sang năm 2023. Lạm phát ảnh hưởng nặng nề đến các thị trường nhập khẩu, khiến nhu cầu mua hàng cho quý I/2023 gần như đình trệ. Nhiều doanh nghiệp thủy sản cho biết, đơn hàng sụt giảm mạnh không chỉ đối với các mặt hàng giá cao, mà cả các sản phẩm có giá vừa phải.
Có 3 nguyên nhân chính tác động tiêu cực tới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong năm 2023, bao gồm biến động tỷ giá, nguồn vốn thắt chặt; kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát tăng làm giảm nhu cầu dẫn đến tồn kho tăng; và cạnh tranh ngày một gay gắt hơn từ những đối thủ có chi phí thấp và giá bán rẻ như Ecuador, Ấn Độ.
Mang tiền đầu tư chứng khoán, Vĩnh Hoàn tạm lỗ 41,2% do cầm cổ phiếu NLG, DXS, KBC
Trong quý III/2022, Vĩnh Hoàn ghi nhận doanh thu đạt 3.261,44 tỷ đồng, tăng 46,2% so với cùng kỳ và lợi nhuận sau thuế đạt 459,82 tỷ đồng, tăng 79,5% so với cùng kỳ. Trong đó, biên lợi nhuận gộp cải thiện từ 18,3% lên 19,2%.
Trong kỳ, lợi nhuận gộp tăng 52,8% so với cùng kỳ, tương ứng tăng thêm 215,95 tỷ đồng lên 624,65 tỷ đồng; doanh thu tài chính tăng 224,8%, tương ứng tăng thêm 112,97 tỷ đồng lên 163,3 tỷ đồng; chi phí tài chính tăng 139,4%, tương ứng tăng thêm 62,25 tỷ đồng lên 106,89 tỷ đồng; chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp tăng 29,4%, tương ứng tăng thêm 32,93 tỷ đồng lên 145,05 tỷ đồng và các hoạt động khác biến động không đáng kể.
Lũy kế trong 9 tháng đầu năm, Vĩnh Hoàn ghi nhận doanh thu đạt 10.755,33 tỷ đồng, tăng 69,1% so với cùng kỳ và lợi nhuận sau thuế đạt 1.815,02 tỷ đồng, tăng 179,7% so với cùng kỳ năm trước.
Do tốc độ tăng trưởng lợi nhuận quý III thấp hơn tốc độ tăng trưởng lợi nhuận 9 tháng đầu năm. Như vậy, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận quý III đang bắt đầu thấp hơn tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm 2022.
Trong năm 2022, Công ty đặt kế hoạch doanh thu 13.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 1.600 tỷ đồng, lần lượt tăng 43,6% và 45,6% so với thực hiện trong năm 2021. Như vậy, kết thúc 9 tháng đầu năm, Công ty hoàn thành 113,4% kế hoạch lợi nhuận năm.
Tính tới 30/9/2022, tổng tài sản của Vĩnh Hoàn tăng 36,3% so với đầu năm lên 11.907,1 tỷ đồng. Trong đó, tài sản chủ yếu các khoản phải thu ngắn hạn đạt 2.943,1 tỷ đồng, chiếm 24,7% tổng tài sản; tồn kho đạt 2.805,8 tỷ đồng, chiếm 23,6% tổng tài sản; tài sản cố định đạt 2.453,4 tỷ đồng, chiếm 20,6% tổng tài sản; tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn đạt 2.237,1 tỷ đồng, chiếm 18,8% tổng tài sản và các khoản mục khác.
Điểm đáng lưu ý, trong 9 tháng đầu năm, các khoản phải thu ngắn hạn tăng 38% so với đầu năm, tương ứng tăng thêm 811 tỷ đồng lên 2.943,1 tỷ đồng; tồn kho tăng 56,5% so với đầu năm, tương ứng tăng thêm 1.012,7 tỷ đồng lên 2.805,8 tỷ đồng.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm, Công ty đã tăng tồn kho và tăng các khoản phải thu ngắn hạn, chủ yếu là tăng phải thu ngắn hạn của khách hàng.
Trong danh mục đầu tư tài chính ngắn hạn, Công ty có thuyết minh đang đầu tư 190,95 tỷ đồng vào chứng khoán, đã thực hiện trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán là 78,65 tỷ đồng, tương ứng mức tạm lỗ trong danh mục là 41,2%.
Trong danh mục đầu tư chứng khoán, Vĩnh Hoàn đang ghi nhận tổng giá trị đầu tư gốc là 71,07 tỷ đồng vào cổ phiếu NLG, đã trích lập dự phòng 31,09 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ trích lập là 43,7% tổng giá trị đầu tư vào cổ phiếu NLG; Công ty đang đầu tư 52,89 tỷ đồng vào cổ phiếu DXS, đã trích lập dự phòng 24,6 tỷ đồng. Như vậy, tỷ lệ trích lập của cổ phiếu DXS là 46,5%; Công ty đang đầu tư 27,01 tỷ đồng vào cổ phiếu KBC, đã trích lập 6,38 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ trích lập 23,6%; và Công ty đang ghi nhận đầu tư 39,98 tỷ đồng vào các cổ phiếu khác, đã trích lập dự phòng 16,61 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ trích lập là 41,5%.
Như vậy, trong danh mục đầu tư cổ phiếu trên sàn, Vĩnh Hoàn đang có tỷ suất lỗ nhiều nhất khi đầu tư vào cổ phiếu DXS.
Đóng cửa phiên giao dịch ngày 12/12, cổ phiếu VHC tăng 1.600 đồng, lên 71.600 đồng/cổ phiếu.