Ảnh minh họa |
Cán cân thanh toán quốc tế
Có thể nhận diện về cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam dưới các góc độ khác nhau. Nhìn tổng quát, cán cân tổng thể đã liên tục tăng lên qua các năm và đạt quy mô khá lớn so với các năm trước. Đó là kết quả tích cực của nền kinh tế và việc điều hành đối với các hoạt động này. Kết quả này càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện vừa qua.
Một nội dung quan trọng của cán cân tổng hợp là cán cân vãng lai đã đạt dấu dương trong 3 năm liên tiếp, với quy mô lớn, chỉ bị mang dấu âm năm 2021.
Bộ phận quan trọng của cán cân vãng lai là cán cân hàng hóa liên tục đạt dấu dương với quy mô khá lớn. Trong đó, cùng tính theo giá FOB, quy mô kim ngạch của xuất khẩu cao hơn của nhập khẩu. Theo đó, trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, Việt Nam ở vị thế xuất siêu. Mức xuất siêu khá lớn, đạt liên tiếp trong 8 năm; dự báo năm 2023 đạt cao nhất từ trước tới nay.
Bộ phận quan trọng khác của cán cân vãng lai là cán cân dịch vụ. Cán cân này có đặc điểm là liên tục mang dấu âm (nhập siêu), do xuất khẩu có quy mô nhỏ hơn nhập khẩu. Nguyên nhân là tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn nhỏ so với thế giới; dịch vụ vận tải chiếm tỷ trọng lớn nhất thì xuất khẩu nhỏ hơn nhiều nhập khẩu; do một số dịch vụ như tài chính, bảo hiểm, chính phủ còn nhỏ và ở vị thế nhập siêu.
Thu nhập cũng là một bộ phận quan trọng của cán cân vãng lai, mang dấu âm với quy mô rất lớn, do số thu nhỏ hơn chi. Một bộ phận quan trọng nữa của cán cân vãng lai là chuyển giao vãng lai, với đặc điểm là liên tục mang dấu dương và đạt quy mô khá, do thu lớn hơn chi.
Cán cân tài chính đạt dấu dương và có quy mô khá lớn, do tác động của các bộ phận cấu thành.
Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện - bộ phận lớn nhất của cán cân tài chính - đạt mức dương lớn và liên tục qua các năm, do đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lớn hơn từ Việt Nam ra nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp cơ bản mang dấu dương trong các năm 2018, 2019 nhờ chiều vào Việt Nam đạt khá, chỉ bị thấp 281 triệu USD vào năm 2021 và bị giảm 1,260 tỷ USD năm 2020, khi đại dịch bùng phát. Đầu tư khác (tài sản ròng) đạt dấu dương trong năm 2019 và mức dương khá cao năm 2021, nhờ tài sản nợ cao hơn tài sản có.
Dự trữ ngoại hối và sự an toàn tài chính
Dự trữ ngoại hối có xu hướng cơ bản là tăng lên qua các năm. Cuối năm 2021 so với cuối năm 2001 đã tăng 105,606 tỷ USD, bình quân 1 năm tăng hơn 5 tỷ USD; trong đó, có 17 năm tăng, với 9 năm tăng cao hơn mức tăng chung. Tuy nhiên, có 3 năm dự trữ ngoại hối đã bị giảm (năm 2009 là -7,443 tỷ USD, năm 2010 là -3,980 tỷ USD, năm 2015 là -5,939 tỷ USD).
Quy mô dự trữ ngoại hối trong mấy năm gần đây đã vượt 3 tháng nhập khẩu (năm 2019 đạt 3,7 tháng, năm 2020 đạt 4,3 tháng, năm 2021 đạt trên 3,9 tháng, năm 2022 đạt 3 tháng). Năm 2021, Việt Nam đứng thứ bậc khá hơn năm 2015 về dự trữ ngoại hối (tăng từ thứ 6 lên thứ 5 Đông Nam Á, từ thứ 17 lên 13 châu Á, từ thứ 38 lên thứ 21 thế giới) và thuộc loại khá của thế giới.
Dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục vào quý I/2022, sau đó giảm, nhưng khả năng sẽ tiếp tục tăng trong năm 2023. Dự báo này có tính khả thi khi xuất siêu hàng hóa liên tục tăng lên qua các tháng; sau 8 tháng đã đạt xấp xỉ 20 tỷ USD, dự báo năm 2023 sẽ là năm thứ 8 liên tiếp xuất siêu và có thể đạt kỷ lục mới. Thực hiện vốn đầu tư nước ngoài 8 tháng đạt 13,1 tỷ USD, tăng so với cùng kỳ và cao nhất so với cùng kỳ trong nhiều năm qua. Kiều hối từ năm 2018 đến nay đã vượt 16 tỷ USD.
CPI bình quân qua các kỳ giảm dần từ đầu năm đến nay. Cộng với tốc độ tăng giá USD thấp so với CPI trong 8 tháng (2,27% so với 3,1%), góp phần làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ… Các tỷ lệ nợ công, nợ chính phủ, đặc biệt nợ nước ngoài/GDP đều ở mức thấp hơn mức trần.