Ngân hàng - Bảo hiểm
Chợ nợ xấu tỷ USD bắt đầu thu hút vốn ngoại; Ngân hàng khủng vẫn không chia cổ tức tiền mặt
H.T - 16/03/2025 09:34
Lãi suất tiếp tục đi xuống, ngân hàng sở hữu kho lợi nhuận khủng vẫn không chia cổ tức tiền mặt, chợ bán nợ tỷ USD thu hút nhà đàu tư ngoại, chặn đầu cơ khi vốn rẻ chảy vào NOXH... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Lãi suất huy động đồng loạt giảm sẽ kéo lãi vay đi xuống

Mặt bằng lãi suất huy động được thiết lập không còn mức cao 6-7%/năm như đầu tháng 2/2025. Lãi suất tiết kiệm đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm để có điều kiện giảm lãi vay.

ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến ngày 10/3 đã có 18 ngân hàng thương mại (NHTM) điều chỉnh giảm lãi suất, mức giảm nhiều nhất lên tới 0,9%/năm. Trong đó có cả ngân hàng có vốn nhà nước và một số ngân hàng cổ phần quy mô. Cụ thể, BIDV vừa giảm 0,1%/năm lãi suất các kỳ hạn dưới 6 tháng, xuống dao động từ 1,6 - 1,9%/năm. Techcombank vừa giảm từ 0,1 - 0,2%/năm đối với nhiều sản phẩm huy động tùy từng kỳ hạn khác nhau.

Cụ thể, đối với sản phẩm tiền gửi tiết kiệm thường, Techcombank giảm 0,15% cho kỳ hạn từ 1 - 36 tháng với khách hàng thường và khách hàng Insprite; giảm 0,2%/năm đối với kỳ hạn từ 1 đến 5 tháng với khách hàng Priority và khách hàng Private và giảm 0,15% đối với kỳ hạn từ 6 đến 36 tháng của khách hàng Priority và khách hàng Private. Đối với các sản phẩm tiền gửi online, tiết kiệm phát lộc tại quầy, phát lộc online, tiền gửi rút gốc linh hoạt của khách hàng thường và khách hàng Private tiền gửi từ 3 tỷ đồng trở lên, nhà băng này giảm lãi suất 0,1%/năm các kỳ hạn từ 1 - 36 tháng...

Trước đó, BVBank giảm 0,1 - 0,4% các kỳ hạn từ 6 - 60 tháng với tiền gửi tại quầy; giảm 0,1% các kỳ hạn 6 - 8 tháng, 0,25% các kỳ hạn 9 - 12 tháng, 0,35% kỳ hạn 15, 18 tháng và 0,4% kỳ hạn 24 tháng đối với tiền gửi online. Từ ngày 25/2 đến 7/3, Eximbank liên tục điều chỉnh giảm lãi suất đối với nhiều sản phẩm tiền gửi. Cụ thể, với tiền gửi tại quầy, chương trình “Gửi dài an tâm” ghi nhận mức giảm từ 0,6 đến 0,8%/năm cho các kỳ hạn từ 15 - 36 tháng.

Đối với tiết kiệm thông thường dành cho khách hàng phổ thông, Eximbank cũng giảm từ 0,1 - 0,2%/năm đối với kỳ hạn từ 12 - 24 tháng, trong khi khách hàng trên 50 tuổi gửi kỳ hạn từ 6 - 12 tháng bị điều chỉnh giảm 0,1%/năm. Ở kênh gửi tiết kiệm trực tuyến, lãi suất cũng giảm mạnh từ 0,2 - 0,8%/năm cho các kỳ hạn từ 6 - 36 tháng.

VietABank giảm 0,1%/năm lãi suất cho các khoản tiền gửi kỳ hạn từ 12 - 36 tháng, áp dụng cho cả hình thức gửi tại quầy và online. PGBank giảm 0,2%/năm lãi suất đối với kỳ hạn 24 - 36 tháng. Khách hàng gửi tiền tại quầy thông qua các chương trình tiết kiệm hoặc hội viên gắn kết hạng Diamond, Gold, Ruby tại LPBank sẽ hưởng mức lãi suất giảm 0,1%/năm cho kỳ hạn từ 1 - 60 tháng. Còn với tiền gửi trực tuyến, mức giảm 0,1%/năm áp dụng cho các kỳ hạn từ 18 - 60 tháng.

 BacABank giảm 0,1%/năm đối với các kỳ hạn từ 1- 11 tháng và 0,2%/năm cho các kỳ hạn từ 12 - 36 tháng đối với tiền gửi tại quầy... Trong khi đó, VCBNeo (Ngân hàng Thương mại TNHH MTV Ngoại thương Công nghệ số) vừa chuyển giao về Vietcomabnk cũng giảm 0,15%/năm lãi suất cho các khoản tiền gửi từ 6 tháng trở lên, áp dụng đồng nhất cho cả tiền gửi tại quầy và trực tuyến. Tương tự, NCB điều chỉnh giảm 0,1%/năm đối với tất cả các kỳ hạn từ 1 - 60 tháng, áp dụng cho cả giao dịch online và tại quầy.

SHB giảm 0,1% cho các khoản gửi kỳ hạn từ 6 - 11 tháng, kỳ hạn từ 13 - 15 tháng; giảm 0,2%/năm kỳ hạn 12, 18 tháng và 0,3%/năm đối với kỳ hạn 24, 36 tháng, áp dụng đồng thời cho cả hai hình thức gửi tại quầy và trực tuyến. Nam A Bank, lãi suất tiền gửi trực tuyến kỳ hạn 1 tháng và từ 3 - 5 tháng giảm 0,3%/năm; kỳ hạn 2 tháng giảm 0,4%/năm và các kỳ hạn từ 6 - 36 tháng giảm 0,1%/năm. Đối với tiền gửi tại quầy, mức giảm dao động từ 0,1 - 0,2%/năm đối với các kỳ hạn từ 1 - 5 tháng.

Chỉ trong khoảng 1 tuần qua đã có khoảng 12 ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động từ 0,1-0,7%/năm, và lãi suất liên ngân hàng cũng hạ nhiệt. Tuy nhiên, vấn đề được các doanh nghiệp và người dân quan tâm hiện nay là lãi suất cho vay thấp sẽ duy trì đến bao giờ, và liệu có còn giảm thêm.

Sau cuộc họp khẩn với NHNN vào gần cuối tháng 2/2025 vừa qua, nhiều NHTM đã đồng loạt điều chỉnh lãi suất huy động theo hướng giảm mạnh, nhằm đạo điều kiện tích cực để giảm lãi suất cho vay ra. Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 2/2025 mới đây, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định: NHNN xác định mục tiêu lớn lúc này là phải duy trì lãi suất thấp ổn định hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp, người dân.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ có Công điện số 19/CĐ-TTg về việc tăng cường thực hiện các giải pháp giảm lãi suất. Đây là chỉ đạo hết sức kịp thời của Chính phủ với thông điệp rõ ràng là muốn giảm lãi suất cho vay, giảm lãi suất huy động. Theo đó, các doanh nghiệp, người gửi tiền, ngân hàng cần có sự chia sẻ đồng thời, đồng bộ làm sao tạo điều kiện mở rộng đầu tư huy động cho vay vốn, đồng vốn hiệu quả quy vòng nhanh, để tạo ra tăng trưởng GDP trên 8%.

Vì vậy, NHNN đã chỉ đạo ngay các NHTM đã tăng lãi suất huy động dịp đầu năm (không tăng lãi suất cho vay) điều chỉnh giảm lãi suất. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng NHTM còn đưa ra gói tín dụng ưu đãi, phù hợp, nhất là các gói tín dụng nhà ở xã hội, người thu nhập thấp. Lãnh đạo NHNN khẳng định: Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, lãnh đạo NHNN đã cam kết theo dõi chặt chẽ thị trường và yêu cầu các tổ chức tín dụng công khai minh bạch thông tin lãi suất cho vay, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay, cũng như các gói tín dụng trên website của mình. Đồng thời, cơ quan này sẽ xử lý nghiêm các hành vi vi phạm hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực lãi suất.

Ngày 9/3/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có Công điện số 22/CĐ-TTg về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội với các chỉ đạo toàn diện.  Trong đó, riêng về lãi suất, Thủ tướng yêu cầu NHNN chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan liên quan theo dõi sát diễn biến lãi suất, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp để tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, động lực tăng trưởng kinh tế, nhà ở xã hội, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số.

Hiện các ngân hàng đã vào cuộc giảm lãi suất cho vay (cả với doanh nghiệp và khách hàng cá nhân), trong đó BIDV cho biết, lãi suất BIDV cung ứng trên thị trường bám sát lãi suất điều hành của NHNN hiện vào khoảng 4%/năm. nAgribank giảm sàn lãi suất cho vay 0,2-0,5%/năm trong tháng 2, kéo lãi suất cho vay còn từ 4%/năm với khoản vay ngắn hạn và từ 6%/năm với khoản vay trung, dài hạn. 

Đối với phân khúc cá nhân các nhà băng tập trung đẩy mạnh cho vay mua nhà, tiêu dùng như: SHB có gói tín ụng 16.000 tỷ đồng cho vay mua nhà lãi suất chỉ từ 3,99%/năm trong 3 tháng đầu tiên; Eximbank cho vay mua nhà lãi suất chỉ từ 3,68%/năm trong 36 tháng đầu tiên cho khách hàng từ 22-35 tuổi; TPBank có gói tín dụng cho vay mua nhà với lãi suất ưu đãi chỉ từ 3,6%/năm và mức cho vay tối đa lên tới 100% nhu cầu vay vốn của khách hàng. ACB cho khách hàng từ 18-35 tuổi vay mua nhà, lãi suất chỉ từ 5,5%/năm...song hiện lãi suất cho vay ưu đãi cũng chỉ mới được áp dụng trong giai đoạn đầu nên người vay kỳ vọng lãi thấp ổn định hơn. 

Ngân hàng dự kiến chia cổ tức “khủng”, tăng mạnh vốn

Mùa đại hội đồng cổ đông đến gần cũng là lúc các ngân hàng công bố kế hoạch chi trả cổ tức chuẩn bị trình cổ đông thông qua để tăng vốn trong năm nay.

Theo công bố mới nhất từ các ngân hàng thương mại, nhiều đơn vị dự kiến chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ từ 15% đến 35% - mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Trong đó, VietinBank, Vietcombank, BIDV, MB Bank và VPBank, Nam A Bank là những cái tên đáng chú ý với kế hoạch phát hành hàng ngàn tỷ đồng cổ phiếu thưởng cho cổ đông tỷ lệ 20-35%.

Cụ thể, với lợi nhuận trước thuế năm qua tăng 10%, đạt 28.829 tỷ đồng, MB dự kiến chia cổ tức tới 25-30%. Đạt lợi nhuận trước thuế 20.013 tỷ đồng trong năm 2024, tăng tới 85%, VPBank không chỉ trả cổ tức cao, mà còn có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn, mở rộng hoạt động bán lẻ và tài chính tiêu dùng.

HDBank cũng là ngân hàng chia cổ tức cho cổ đông cao trong nhiều năm liền. Tại Đại hội đồng cổ đông năm 2024, nhà băng này đã trình cổ đông kế hoạch chia cổ tức dự kiến thực hiện trong năm 2025 đến 30%, gồm tối đa 15% tiền mặt, tương đương năm 2024.

Nam A Bank vừa công bố tài liệu họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2025 dự kiến diễn ra vào ngày 28/3, với chỉ tiêu lợi nhuận ở mức 5.000 tỷ đồng trước thuế, tăng 10% so với năm 2024, cổ tức dự kiến chia 25%. Với lợi nhuận sau thuế năm 2024 là 3.607 tỷ đồng, ngân hàng này dự kiến trình cổ đông phương án trích hơn 721 tỷ đồng cho các quỹ theo quy định và hơn 47 tỷ đồng cho các quỹ khác, lợi nhuận chưa phân phối còn lại hơn 2.838 tỷ đồng.

Theo tài liệu Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2025, VIB dự kiến chia cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 7%. Đại hội dự kiến tổ chức vào ngày 27/3 tại TP.HCM. Với kết quả đạt được trong năm 2024, sau khi trích lập các quỹ và chi trả cổ tức bằng tiền, lợi nhuận hợp nhất còn lại của VIB là hơn 4.059 tỷ đồng, lợi nhuận riêng lẻ hơn 3.963 tỷ đồng.

Ngoài việc chia cổ tức bằng tiền mặt, HĐQT VIB cũng đề xuất phương án phát hành gần 417,1 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, tương ứng tỷ lệ 14%, đưa vốn điều lệ tăng thêm gần 4.171 tỷ đồng. Cùng với đó, VIB phát hành 7,8 triệu cổ phiếu thưởng cho cán bộ nhân viên, tương ứng tỷ lệ 0,26%, giúp vốn điều lệ tăng thêm 78 tỷ đồng.

Sau khi hoàn thành hai cấu phần trên, vốn điều lệ của VIB sẽ tăng từ hơn 29.791 tỷ đồng lên hơn 34.040 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ tăng vốn là 14,26%. Toàn bộ vốn điều lệ tăng thêm sẽ được VIB sử dụng phục vụ hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh cấp tín dụng, đầu tư vào tài sản thanh khoản, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, mở rộng mạng lưới chi nhánh… 

Ba ngân hàng quốc doanh đã niêm yết gồm Vietcombank, VietinBank, BIDV đều là những nhà băng có kết quả lợi nhuận cao top đầu hệ thống và đưa ra kế hoạch chia cổ tức tỷ lệ cao. Kết thúc năm 2024, ba ngân hàng này lần lượt dẫn đầu toàn ngành về kết quả lợi nhuận trước thuế với Vietcombank đạt 42.236 tỷ đồng (+2%); VietinBank đạt 31.758 tỷ (+27%) và BIDV đạt 31.383 tỷ (+14%).

Vietcombank cho biết, sẽ phát hành hơn 2,76 tỷ cổ phiếu để trả cổ tức cho cổ đông từ nguồn lợi nhuận còn lại sau thuế, sau trích lập các quỹ lũy kế đến hết năm 2018 và lợi nhuận còn lại năm 2021, tương đương tỷ lệ phát hành tới 49,5%. Ngày đăng ký cuối cùng là 13/3/2025. Sau khi phương án được hoàn tất, vốn điều lệ Vietcombank dự kiến tăng thêm hơn 27.666 tỷ đồng, từ 55.890 tỷ đồng lên mức 83.557 tỷ đồng, cao nhất hệ thống ngân hàng hiện nay.

Vietcombank còn chia sẻ kế hoạch phát hành riêng lẻ 6,5% vốn cho nhà đầu tư tổ chức (tương đương 1,3 tỷ USD), dự kiến được hoàn tất trong nửa đầu năm 2025. Nếu điều kiện thị trường thuận lợi, thì vốn điều lệ sẽ còn tăng cao hơn.

Trong khi đó, HĐQT VietinBank dự kiến dùng toàn bộ lợi nhuận còn lại năm 2023 là hơn 12.500 tỷ đồng để chia cổ tức bằng cổ phiếu, giúp Ngân hàng nâng vốn điều lệ, tăng dư địa tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2025-2030. BIDV trình kế hoạch trả cổ tức khoảng 20% bằng cổ phiếu, đồng thời tăng vốn để đáp ứng các tiêu chuẩn Basel III.

Có thể thấy, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu thay vì tiền mặt giúp các ngân hàng tích lũy vốn tự có, cải thiện Hệ số An toàn vốn (CAR) và tăng khả năng mở rộng tín dụng.

Quy định không được thu giữ tài sản bằng biện pháp “trái đạo đức”: Ngân hàng nói gì?

Dự thảo quy định mới của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) yêu cầu không được áp dụng các biện trái đạo đức xã hội khi thu giữ tài sản đảm bảo. Các ngân hàng cho rằng khái niệm này là nội dung khó xác định.

Theo phản ánh của các ngân hàng thương mại, từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực, việc xử lý nợ xấu vô cùng khó khăn vì ngân hàng không còn được quyền thu giữ tài sản đảm bảo. Để tháo gỡ khó khăn cho các ngân hàng, Thủ tướng đã yêu cầu Thống đốc khẩn trương xây dựng hồ sơ về luật hóa Nghị quyết 42 để trình Quốc hội trong kỳ họp tháng 5 tới.

Mới đây, NHNN đã đưa ra lấy ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14.

Theo dự thảo, quyền chủ nợ của các tổ chức tín dụng được bảo đảm tốt hơn khi được công nhận quyền thu giữ tài sản bảo đảm (tất nhiên phải đáp ứng các điều kiện cụ thể).

Tuy nhiên, dự thảo cũng quy định: “Trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”.

Về vấn đề này, đại diện SHB đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung quy định, hướng dẫn cụ thể về các biện pháp mà các tổ chức tín dung bị cấm thực hiện trong quá trình thu giữ xử lý tài sản đảm bảo (TSĐB).

Trong khi đó, ngân hàng VPBank lại đề xuất bỏ cụm từ: “trái đạo đức xã hội”. Theo ngân hàng, nội dung này mặc dù có định nghĩa trong Bộ luật dân sự nhưng là nội dung khó xác định, phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan, nhiều khả năng ảnh hưởng đến quyền của TCTD khi thực hiện thu giữ TSBĐ. Do đó, có khả năng hạn chế việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ trên thực tế và ảnh hưởng đến việc thu hồi, xử lý nợ của các TCTD. Nếu quá trình thu giữ, chiếm giữ tài sản bảo đảm không quyết liệt thì chủ tài sản vẫn chống đối và hiệu quả của việc thu giữ, chiếm giữ tài sản sẽ không phát huy.

Tuy vậy, NHNN không tiếp thu đề xuất này, do đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. 

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định, một trong những điều kiện để tổ chức tín dụng thu giữ tài sản đảm bảo là: “Tại hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật”.

Tuy nhiên, nhiều ngân hàng thương mại kiến nghị được quyền thu giữ tài sản đảm bảo ngay cả khi không có thỏa thuận giữa hai bên.

Đại diện MB cho hay, hầu hết các hợp đồng bảo đảm được ký kết trước đây phần lớn không quy định trực tiếp nội dung này (vì tại thời điểm hợp đồng được ký kết thì Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006;  sau đó Bộ luật dân sự 2015 cũng không quy định về quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, để đủ điều kiện áp dụng quyền thu giữ TSBĐ theo quy định trên, các TCTD phải đàm phán với bên vay điều chỉnh lại hợp đồng, nhưng khách hàng thường không hợp tác (không ký)

Đại diện Vietcombank cũng kiến nghị tương tự vì hầu hết các khách hàng đều không hợp tác ký kết thỏa thuận bổ sung. Vì vậy, các TCTD rất khó để thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Điều 7 Nghị quyết số 42 cũng như Điều 198a Dự thảo Luật các TCTD.

“Để thuận lợi cho các bên trong việc xác lập thỏa thuận về việc thu giữ tài sản cũng như tạo thuận lợi cho TCTD trong việc đáp ứng các điều kiện để thực hiện quyền thu giữ, kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh điều kiện này theo hướng thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm được thu giữ TSBĐ có thể ghi nhận tại hợp đồng bảo đảm hoặc tại văn bản khác”, đại diện VietinBank nêu đề xuất.

Đề xuất trên của các ngân hàng cũng không được NHNN chấp thuận. Lý do là theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật dân sự, quyền tài sản của tổ chức, cá nhân là một trong những quyền được pháp luật công nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, quyền đòi nợ cũng là một trong những quyền hợp pháp của bên cho vay. Việc thực hiện quyền đòi nợ đó phải đảm bảo tuân thủ quy định, quy trình nhất định và có thể dựa trên sự thỏa thuận của các bên khi giao kết hợp đồng.

Mục tiêu của Dự án Luật không chỉ xử lý những hợp đồng đã kí mà còn là xử lý các hợp đồng sẽ ký trong tương lai. Do vậy, việc hợp đồng đảm bảo có điều khoản ghi nhận sự đồng ý của bên bảo đảm để bên nhận bảo đảm thực hiện quyền thu giữ TSBĐ là cần thiết để cân bằng quyền lợi giữa bên cho vay và bên bảo đảm/bên đi vay.

Quy định này là cần thiết đảm bảo cho các bên biết rõ và tự do thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, đặc biệt là các quy định về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng như các hành vi của mình. 

Ngân hàng sở hữu quỹ lợi nhuận khủng, cổ đông vẫn “đói” cổ tức tiền mặt

Sở hữu quỹ lợi nhuận để lại hàng trăm, hàng chục ngàn tỷ đồng nhưng năm 2025, hàng loạt ngân hàng không có kế hoạch chia cổ tức tiền mặt, thay vào đó là chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ cao ngất ngưởng để tăng vốn.

Tăng đến cuối năm 2024, “kho” lợi nhuận chưa phân phối của các ngân hàng rất lớn. Trong đó, lớn nhất là Vietcombank với lợi nhuận chưa phân phối đạt 110.678 tỷ đồng (riêng lợi nhuận để lại năm 2024 là 33.831 tỷ đồng).

Tại VietinBank, lợi nhuận chưa phân phối tính  đến cuối năm 2024 đạt 58.390 tỷ đồng. Techcombank, MB và BIDV cũng lần lượt sở hữu trên dưới 40.000 tỷ đồng lợi nhuận chưa phân phối.  

Nhóm ngân hàng còn lại có quỹ lợi nhuận khủng chưa phân phối tiếp theo là: Sacombank (28.426 tỷ đồng), VPBank (24.000 tỷ đồng), ACB (23.733 tỷ đồng), SHB (gần 15.000 tỷ đồng), HDBank (gần 13.000 tỷ đồng)…

Mặc dù nguồn lợi nhuận giữ lại rất lớn song hiện hầu hết các ngân hàng không có kế hoạch chia cổ tức bằng tiền mặt mà chủ yếu chia cổ tức bằng cổ phiếu.

Cụ thể, theo thông báo của Vietcombank, ngày mai (13/3) là ngày đăng ký cuối cùng để chốt danh sách cổ đông phát hành cổ phiếu trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại sau thuế, sau trích lập các quỹ lũy kế đến hết năm 2018 và lợi nhuận còn lại năm 2021. Theo đó, ngân hàng sẽ phát hành hơn 2,76 tỷ cổ phiếu để trả cổ tức cho cổ đông, tương đương tỷ lệ phát hành tới 49,5%. 

Vietcombank cũng muốn sử dụng 22.770 tỷ đồng lợi nhuận còn lại sau trích lập các quỹ của năm 2023 và lợi nhuận để lại năm 2024 để chia cổ tức bằng cổ phiếu.

Một ông lớn khác là VietinBank cũng dự kiến trình ĐHĐCĐ thường niên 2025 phương án chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 44,64% để tăng vốn. Nguồn chi trả cổ tức là từ lợi nhuận còn lại sau thuế, trích các quỹ và chia cổ tức tiền mặt giai đoạn năm 2009 - 2016.  

Trước đó, VietinBank cho biết đã nhận được ý kiến của NHNN và Bộ tài chính cho phép giữ lại toàn bộ lợi nhuận năm 2022 (11.678 tỷ đồng) để tăng vốn thông qua chia cổ tức bằng cổ phiếu. Bên cạnh đó, ngân hàng còn kế hoạch tăng vốn điều lệ thêm 12.330 tỷ đồng từ nguồn lợi nhuận còn lại từ năm 2021 và lợi nhuận còn lại lũy kế đến hết năm 2016. Ngân hàng cũng muốn sử dụng toàn bộ lợi nhuận giữ lại năm 2023, 2024 để tăng vốn.

VietinBank đã đề xuất các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chủ trương cho phép ngân hàng được giữ lại toàn bộ lợi nhuận hàng năm của giai đoạn 2024 - 2028 để tăng vốn, nâng cao năng lực tài chính, mở rộng dư địa tăng trưởng tín dụng.

Trong khối ngân hàng TMCP tư nhân, mới một vài ngân hàng công bố kế hoạch phân phối lợi nhuận năm 2024, phần lớn đều chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn.

Cụ thể, năm 2025, Nam A Bank trình kế hoạch nâng vốn điều lệ thêm hơn 4.281 tỷ đồng thông qua việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức và phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn (ESOP). Trong đó, về phương án phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, ngân hàng dự định phát hành thêm 343,1 triệu cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 25%, giúp vốn điều lệ tăng thêm hơn 3.431 tỷ đồng. Nguồn phát hành từ nguồn vốn chủ sở hữu (lợi nhuận sau thuế chưa phân phối và các quỹ khác theo quy định của pháp luật tại ngày 31/12/2024 căn cứ trên báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2024).

VIB là ngân hàng đầu tiên công bố kế hoạch chia cổ tức bằng tiền mặt năm nay, tuy vậy, tỷ lệ chia cổ tức phần lớn vẫn là cổ phiếu. Theo đó, năm nay, VIB dự kiến sẽ chia cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 7%, phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu tỷ lệ 14% và phát hành 7,8 triệu cổ phiếu ESOP cho nhân viên.

Ngoài VIB, năm nay có thể sẽ có thêm một số ngân hàng chia cổ tức bằng tiền mặt như VPBank, HDBank…

Cụ thể, lãnh đạo HDBank cho biết năm nay ngân hàng sẽ chia cổ tức tương đương năm ngoái (năm ngoái HDBank chia cổ tăng bằng tiền mặt và cổ phiếu). Tại ĐHĐCĐ thường niên năm 2024, ông Ngô Chí Dũng, Chủ tịch HĐQT VPBank khẳng định sẽ chia cổ tức tiền mặt trong 5 năm liền.

Trong năm 2024, có 10 ngân hàng đã thực hiện kế hoạch hoặc công bố chủ trương trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông là VIB, ACB, HDBank, MB, VPBank, Techcombank, Eximbank, SHB, TPBank và MSB.

Tuy vậy, năm nay, số ngân hàng chia cổ tức bằng tiền mặt có thể sẽ ít hơn bởi đa phần các ngân hàng đang phải đứng trước áp lực tăng vốn điều lệ, cải thiện hệ số CAR để  phục vụ nhu cầu tăng trưởng tín dụng cao giai đoạn tới. 

Theo ông Ivan Tan, Giám đốc, Xếp hạng Định chế Tài chính, S&P Global Ratings, các ngân hàng Việt Nam đang chịu áp lực tăng vốn rất lớn. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng Campuchia là 22,6%, của Thái Lan là 20,5%, các ngân hàng Trung Quốc là 15,6%. Trong khi ở Việt Nam, CAR của các ngân hàng là 12,4%. Khi các ngân hàng Việt muốn tăng trưởng tín dụng cao, họ cần rất nhiều vốn để đảm bảo tỷ lệ trên.

Do khát vốn, việc ngân hàng Việt chia cổ tức bằng cổ phiếu là dễ hiểu, song chuyên gia cũng cho rằng, điều này làm giảm sức hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng Việt, là một trong những nguyên nhân khiến nhà đầu tư ngoại kém mặn mà.

“Nhiều cổ đông nước ngoài không hài lòng vì các ngân hàng Việt ít trả cổ tức tiền mặt những năm gần đây, khác biệt khá nhiều so với các nước khác”, ông Ivan Tan cho hay.

“Chợ” mua bán nợ tỷ USD: Nhà đầu tư ngoại bắt đầu nhập cuộc

“Chợ” mua bán nợ xấu quy mô lên tới hàng tỷ USD đang được kỳ vọng nhộn nhịp hơn nhờ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài.

Trong Công điện số 22/CĐ-TTg vừa ban hành, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu khuyến khích các ngân hàng nước ngoài tham gia quá trình xử lý nợ xấu, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém và đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam.

Thực tế, thị trường nợ xấu Việt Nam có quy mô đủ hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài (theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước - NHNN, tổng số dư nợ xấu toàn ngành đang ở mức hơn 227.000 tỷ đồng, tức gần 9 tỷ USD). Thời gian qua, có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Công ty TNHH Mua bán nợ OK, Công ty TNHH Mua bán nợ Welcome, Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (KAMCO)... quan tâm tìm hiểu cơ hội đầu tư vào thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.

Tuy vậy, hiện nay, việc mua bán nợ vẫn diễn ra loanh quanh giữa Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) và các công ty mua bán nợ trực thuộc các ngân hàng thương mại (AMC) trong nước. Việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia “chợ” nợ xấu dù được đặt ra từ rất sớm, nhưng chưa được triển khai hiệu quả. 

TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, có nhiều nguyên nhân khiến thị trường mua bán nợ chưa phát triển. Đó là chủ thể tham gia thị trường chưa nhiều (các tổ chức tín dụng vẫn chủ yếu chỉ bán nợ cho VAMC và DATC).

Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong xác định các khoản nợ mà tổ chức tín dụng mua từ tổ chức/cá nhân có chức năng kinh doanh, mua bán nợ (không phải tổ chức tín dụng) có được áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 để xử lý nợ, xử lý tài sản đảm bảo hay không? Các công cụ và dịch vụ hỗ trợ thị trường mua bán nợ còn thiếu và yếu. Việc đăng ký thay đổi bên nhận bảo đảm sau khi tổ chức tín dụng bán khoản nợ xấu gặp nhiều vướng mắc, gây rủi ro cho nhà đầu tư. 

Lãnh đạo công ty mua bán nợ của một ngân hàng cho biết, hiện nay, thông tin về nợ xấu cơ bản đã minh bạch và đầy đủ. Lý do chính khiến “chợ” chưa thể phát triển là hành lang pháp lý chưa đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư, chưa hấp dẫn được nhà đầu tư nước ngoài.

TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, kinh nghiệm xử lý nợ xấu thành công của các nước là phải có thị trường mua bán nợ đúng nghĩa và phải thu hút được dòng vốn ngoại tham gia thị trường này. Hiện quy mô nợ xấu của Việt Nam đủ để tạo thành một thị trường mua bán nợ hấp dẫn với nhà đầu tư quốc tế, đáng tiếc là hành lang pháp lý chưa thể tạo được sức hút với nhà đầu tư.

Hiện nay, Sàn giao dịch nợ VAMC đã phát triển được kho dữ liệu tương đối đa dạng, đã kết nối được với nhiều nhà đầu tư, cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư, trong đó có cả nhà đầu tư nước ngoài. Ông Vũ Ngọc Minh, Giám đốc Sàn giao dịch nợ VAMC cho biết, ngay từ khi thành lập, Sàn đã mời chào các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Các nhà đầu tư được tạo điều kiện tối đa tìm hiểu nguồn hàng.

“Thời gian qua, các nhà đầu tư Hàn Quốc, Trung Quốc… rất quan tâm đến thị trường mua bán nợ của Việt Nam. Chúng tôi đã giới thiệu danh mục rất lớn cho nhà đầu tư Hàn Quốc, họ đã xem xét và đang tiến hành giao dịch mua mấy khoản nợ lớn”, ông Minh cho biết.

Gần đây, thông qua KAMCO, nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc bày tỏ mối quan tâm với thị trường nợ xấu Việt Nam. Trước đó, KAMCO đã đề nghị VAMC cung cấp danh mục khách hàng vay, tài sản bảo đảm để các nhà đầu tư Hàn Quốc có thể nghiên cứu, tiếp cận trong khuôn khổ quy định pháp luật Việt Nam.

Được biết, các nhà đầu tư Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến các Dự án bất động sản dở dang, các chuỗi công ty hoạt động sản xuất - kinh doanh có tiềm năng, nhưng gặp khó khăn tạm thời về dòng vốn… Thông qua mua nợ, các nhà đầu tư Hàn Quốc có thể gia tăng hiện diện tại thị trường bất động sản và một số ngành hàng khác tại Việt Nam.

Ngoài nhà đầu tư Hàn Quốc, các nhà đầu tư Trung Quốc, ASEAN cũng đặc biệt quan tâm đến thị trường nợ xấu Việt Nam. Tập đoàn Collectius - đối tác cung cấp dịch vụ tái cơ cấu, mua bán nợ xấu khu vực châu Á có trụ sở tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam - đang tích cực thúc đẩy hoạt động tại Việt Nam. Đại diện Tập đoàn cho hay, tại Việt Nam, Collectius đã phục vụ hơn 195.000 khách hàng thông qua nhiều thương vụ mua bán nợ xấu và đang thương thảo với nhiều tổ chức tài chính khác nhau nhằm đa dạng danh mục đầu tư.

Theo lãnh đạo một công ty mua bán nợ, dù nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến “chợ” nợ xấu Việt Nam, thông tin về các khoản nợ xấu được các tổ chức tín dụng và VAMC cung cấp rõ ràng, minh bạch, song để giao dịch thành công phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là hành lang pháp lý. Do đó, việc luật hóa Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sẽ hỗ trợ rất lớn cho thúc đẩy thị trường nợ phát triển, thu hút nhà đầu tư nước ngoài. 

Cần cân bằng giữa lãi suất và tỷ giá

PGS-TS. Trần Hùng Sơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng (Trường đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM) cho rằng, để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, kích cầu tín dụng, các ngân hàng phải tiết kiệm chi phí, song cũng cần cân bằng giữa lãi suất và tỷ giá.

Ông nhận định thế nào về mặt bằng lãi suất hiện nay và thời gian tới? 

Sau chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặt bằng lãi suất huy động đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm, song về dài hạn, theo tôi, lãi suất sẽ theo cung - cầu vốn của thị trường. Vả lại, cũng phải cân bằng được bài toán giữa lãi suất và tỷ giá, nhất là khi “sức khỏe” USD được dự báo chưa hết tăng.

Việc giảm lãi suất cho vay phụ thuộc vào việc tiết giảm chi phí vốn của các ngân hàng. Do đó, các ngân hàng khó duy trì lãi suất huy động cao trong bối cảnh hiện nay, mà phải nỗ lực tiết giảm chi phí, từ đó có thể giảm được lãi suất cho vay, kích cầu vốn.

Dư địa nới lỏng của chính sách tiền tệ hiện ra sao, thưa ông? 

Chính sách tiền tệ khó có thêm nhiều dư địa nới lỏng, bởi tăng trưởng tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức cao. Chẳng hạn, năm 2024, quy mô tín dụng trên GPD khoảng 136%. Trong khi đó, nghiên cứu của BIS (2024) ở các nền kinh tế mới nổi tại châu Á cho thấy, nếu quy mô tín dụng/GDP vượt ngưỡng 130%, thì tín dụng sẽ kìm hãm tăng trưởng.

Tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam 20 năm qua đạt mức cao nhất khi tỷ lệ tín dụng/GDP đạt gần mức 100% và có xu hướng suy giảm khi tỷ lệ tín dụng/GDP vượt qua ngưỡng này. Vì vậy, khả năng chính sách tiền tệ có thể thúc đẩy gia tăng thêm vốn cũng được xem là một hạn chế mà có chăng chúng ta nên kết hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách chi tiêu công, nhất là chi tiêu liên quan đến vấn đề an sinh xã hội như phát triển nhà ở xã hội.

Nhưng thực tế, tỷ lệ sử dụng vốn vay của doanh nghiệp Việt Nam khá lớn? 

Nếu gặp khó khăn trong tiếp cận vốn, thì các doanh nghiệp có xu hướng tìm kiếm các nguồn tài trợ thay thế, như nguồn tài trợ nội bộ, tín dụng thương mại, tín dụng phi ngân hàng và từ mạng lưới cá nhân... So với các quốc gia có cùng trình độ phát triển, tỷ lệ tài trợ nội bộ của các doanh nghiệp Việt Nam thấp hơn, nhưng tiếp cận tài chính tốt hơn.

Kết quả phân tích bổ sung cho thấy, khi hạn chế tài chính chuyển từ bậc thấp lên bậc cao hơn, trung bình ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tài sản) giảm khoảng 2%, tỷ lệ doanh thu/đầu tư giảm 33 đồng. Đối với lãi suất, doanh nghiệp có hạn chế tài chính càng cao, thì phải trả chi phí vay cao hơn.

Vì thế, nếu giảm được tình trạng hạn chế tài chính cho các doanh nghiệp, thì có thể kỳ vọng sự bùng nổ trong đầu tư dài hạn, nâng cao tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam. Thế nhưng, quy mô tín dụng ngân hàng đang tiến đến điểm ngưỡng tiếp tục gia tăng, có thể tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế.

Thị trường vốn còn khó khăn và chưa hồi phục. Làm thế nào để cân đối được bài toán cung ứng vốn cho nền kinh tế, tránh phụ thuộc vào vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng cũng như giảm bớt áp lực lên chính sách tiền tệ? 

Thị trường vốn phát triển thấp làm hạn chế nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào vốn tín dụng, tài trợ nội bộ cho đầu tư, do đó cần cải thiện tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp cận tài chính hiện không hoàn toàn ràng buộc chặt với tăng trưởng, nhưng rất có khả năng là ràng buộc trọng yếu khi nền kinh tế vào pha tăng trưởng cao.

Tuy nhiên, để phát triển thị trường vốn, giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn trung, dài hạn, tránh phụ thuộc vốn tín dụng ngân hàng, thì phải phát triển được thị trường cổ phiếu, trái phiếu. Đối với thị trường cổ phiếu, quy mô thực tế còn thấp, ước chỉ khoảng 60% trên GDP và room có thể đẩy mạnh để huy động động, cung ứng vốn còn lớn.

Thị trường trái phiếu cũng đã có bước phát triển, nhưng cần có thêm quy định chặt chẽ. Vì thế, cần có thêm thời gian cũng như giải pháp để phục hồi và phát triển thị trường này.

 Vốn rẻ chảy vào nhà ở xã hội: Không để xảy ra đầu cơ và tăng giá

Một lượng lớn vốn rẻ đã được các ngân hàng chuẩn bị, sẵn sàng đổ vào các dự án nhà ở xã hội trong khi nguồn cung vẫn khan hiếm. Các chuyên gia cảnh báo, cần có giải pháp để việc bơm thêm vốn không làm giá nhà bị thổi lên.

Thị trường bất động sản đang đón nhiều cú hích để phục hồi trở lại. Hiện Chính phủ đưa ra loạt giải pháp phát triển nhà ở xã hội. Các ngân hàng ngân hàng cũng cạnh tranh ráo riết tung ra các gói cho vay mua nhà giá rẻ để kích thích cầu vay mua nhà của cá nhân.

Mới đây, một loạt ngân hàng như LPBank, SHB, HDBank, ACB… tung ra các gói vay với lãi suất chỉ từ 3,88%/năm đến 5,5%/năm hỗ trợ cho vay mua nhà. Khách hàng được vay tối đa 90-100% giá trị tài sản, thời hạn vay tối đa 35-50 năm, ân hạn gốc 24-60 tháng.

Riêng với nhà ở xã hội, gói tín dụng 145.000 tỷ đồng đang tích cực được giải ngân. Ông Phạm Toàn Vượng, Tổng giám đốc Agribank (ngân hàng đang đứng đầu về cho vay nhà ở xã hội) cho hay, ngân hàng này hiện cấp tín dụng cho 13 chủ đầu tư và gần 300 khách hàng cá nhân mua nhà của các Dự án, với tổng mức tín dụng đã cấp gần 4.000 tỷ đồng và dư nợ đạt trên 1.000 tỷ đồng. Ngân hàng đang tiếp cận và xem xét cấp tín dụng đối với 5 dự án, tổng mức cấp tín dụng dự kiến gần 3.000 tỷ đồng.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đối với gói 145.000 tỷ đồng và chương trình cho vay tín dụng với người trẻ dưới 35 tuổi, NHNN đã kêu gọi các ngân hàng tham gia, lãi suất ưu đãi khi cho vay các chương trình này thấp hơn 1-3% lãi suất cho vay thông thường.

“Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi đã kêu gọi được 9 ngân hàng đăng ký khoảng 45.000 - 55.000 tỷ đồng để cho người trẻ vay trong thời gian 15 năm, lãi suất thấp hơn khoảng 1-3%. Tuy nhiên, hầu hết người trẻ chỉ có nhu cầu thuê nhà, chứ chưa có nhu cầu mua nhà, nên cần đánh giá lại để có chính sách phù hợp. Riêng gói tín dụng 145.000 tỷ đồng, các ngân hàng đang cho vay với lãi suất 6,1-6,6%/năm, tức bằng lãi suất cho vay với người nghèo”, Thống đốc NHNN cho biết.

Dù các ngân hàng hành động rất nhanh khi hưởng ứng chủ trương phát triển nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ của Chính phủ, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, sự hưởng ứng của ngân hàng là chưa đủ. Muốn phân khúc này phục hồi, các chủ đầu tư bất động sản phải đi trước một bước để tạo nguồn cung. Trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm, mà ngân hàng lại tăng bơm tiền, rất có thể sẽ xảy ra hiệu ứng ngược.

Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, dường như các chủ đầu tư chưa có những động thái cụ thể và thiết thực để hỗ trợ người dân có nhu cầu mua được nhà ở với chi phí hợp lý, ngược lại còn liên tục đẩy giá lên cao. Do vậy, dù người dân có được vay ưu đãi lãi suất, thì chi phí mua nhà vẫn ngày càng lớn hơn, vượt xa khả năng chi trả của họ.

“Tôi có đôi chút lo ngại rằng, khi ngân hàng tạo điều kiện cho vay mua nhà với lãi suất thấp, giá nhà sẽ còn tăng cao nữa (do tiền bơm vào nhiều hơn trong khi nguồn cung không đủ cầu). Cần thận trọng, không để dòng vốn giá rẻ làm tăng giá nhà”, ông Hùng cảnh báo.

Cần huy động tổng lực nguồn vốn cho nhà ở xã hội

Tốc độ giải ngân gói tín dụng 145.000 tỷ đồng ưu đãi cho vay nhà ở xã hội có thể nhanh hơn trong thời gian tới, song theo các chuyên gia, để “kích” phân khúc này, trước hết, phải tháo gỡ các rào cản với phía cung nhà ở xã hội.

Theo đó, nhiều chủ đầu tư bất động sản kiến nghị cho phép các địa phương được chỉ định thầu, chỉ định nhà đầu tư; tăng lợi nhuận định mức cho doanh nghiệp lên 15-20%; tạo quỹ đất phát triển nhà ở xã hội; thí điểm giao đất không qua đấu thầu

Riêng về vốn, để đầu tư 1 triệu nhà ở xã hội, không thể chỉ trông chờ vào tín dụng ngân hàng. TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, gói 145.000 tỷ đồng là vốn thương mại, cho vay bằng nguồn vốn ngân hàng huy động trong dân, nên phải đảm bảo có lãi, không thể duy trì lãi vay quá thấp. Để phát triển nhà ở xã hội, nguồn vốn ưu đãi mang tính quyết định phải là vốn ngân sách.

GS-TS. Hoàng Văn Cường, nguyên Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất xây dựng Quỹ nhà ở quốc gia sử dụng nguồn tiền từ khoản đóng góp 2% tiền sử dụng đất của các dự án nhà ở xã hội do doanh nghiệp nộp. Nguồn quỹ này sẽ được dùng để đầu tư phát triển nhà ở xã hội trong tương lai.

Chuyên gia này cũng cho rằng, Quỹ nhà ở quốc gia cần áp dụng cơ chế người dân có thể đóng góp trước khi đăng ký mua nhà. Theo đó, tiêu chí ưu tiên có thể dựa trên mức đóng góp và thời gian tham gia. Cách làm này vừa giúp huy động vốn hiệu quả, vừa giúp phân loại rõ ràng giữa đối tượng có khả năng mua, thuê mua hoặc thuê nhà, thay vì phải đánh giá thủ công từng trường hợp.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp “khát” tay chơi lớn

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa đa dạng mặt hàng khiến tỷ lệ vốn rót của các quỹ đầu tư chưa cao. Đây cũng là nguyên nhân khiến thị trường này chưa thể sôi động.

Ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Phân tích tại FiinRatings cho biết, năm 2025, nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế là rất lớn. Trái phiếu doanh nghiệp là một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng với doanh nghiệp, song chưa thu hút được đa dạng các nhà đầu tư tổ chức.

“Hiện nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dựa vào các ngân hàng thương mại, trong khi thiếu vắng sự tham gia của các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và quỹ tương hỗ - những nhóm nhà đầu tư quan trọng trong các thị trường phát triển”, ông Khang nhận định.

Thực tế cho thấy, từ năm ngoái đến nay, ngân hàng thương mại gần như áp đảo toàn bộ thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong cả “vai” người bán lẫn “vai” người mua. Sự tham gia tích cực của ngân hàng khiến quy mô thị trường này tăng, song việc ngân hàng “một mình một chợ” cho thấy chiều sâu của thị trường cần phải cải thiện thêm.

Theo FiinRatings, ở các quốc gia phát triển, mức độ tham gia của các nhà đầu tư tổ chức không phải là định chế tài chính rất lớn, chiếm 40-50% quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp, song ở Việt Nam, con số này mới là 10-15%. Dù các quỹ bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, các quỹ hưu trí… ở nước ta đang nắm giữ tới 90 tỷ USD tổng tài sản, nhưng lượng vốn tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn thấp.

Nhiều quỹ đầu tư trong và ngoài nước cũng cho rằng, chiều sâu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam chỉ được cải thiện khi có cơ chế thu hút dòng vốn này.

“Hiện nay, số lượng nhà đầu tư cá nhân nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, nhà đầu tư tổ chức nắm giữ tỷ lệ nhỏ, tạo sự mất cân bằng. Đặc biệt, phân khúc rất quan trọng của thị trường là các quỹ bảo hiểm chưa được phát huy. Ngay cả quỹ đầu tư của Công ty chứng khoán TCBS cũng đang gặp khó khăn khi đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp vì thiếu nguồn hàng, chúng tôi chỉ được đầu tư vào trái phiếu niêm yết”, ông Nguyễn Tuấn Cường, Phó tổng giám đốc Công ty TCBS cho biết. 

Về đa dạng hàng hóa cũng như cơ sở nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đại diện Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, các tổ chức phát hành cần có thêm nhiều sản phẩm mới để thu hút nhà đầu tư, đặc biệt là trái phiếu xanh, trái phiếu niêm yết. Ngoài ra, các quỹ đầu tư trong nước cũng cần hợp tác nhiều hơn với các quỹ đầu tư nước ngoài để tham gia thị trường trái phiếu.

Thời gian qua, cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng tính minh bạch trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, loại bỏ bớt rào cản tham gia thị trường với các quỹ đầu tư, nghiên cứu những chính sách cho các mô hình quỹ đầu tư mới…

Phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 2/2025 gần như đóng băng do không có đợt phát hành nào. Song các chuyên gia cho rằng, có 3 nguyên nhân khiến phát hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2025 vẫn tăng trưởng khả quan.

Thứ nhất, các tổ chức tín dụng tăng phát hành trái phiếu để tăng vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2025 - dự kiến ở mức 16%, đồng thời tuân thủ các tỷ lệ an toàn của Ngân hàng Nhà nước. bất động sản phục hồi và Chính phủ đẩy mạnh các chính sách triển khai Quy hoạch Điện VIII khiến phát hành trái phiếu bất động sản và trái phiếu năng lượng tái tạo sôi động trở lại.

Thứ hai, thị trường gần đây ghi nhận một số doanh nghiệp đa ngành phát hành trái phiếu kỳ hạn dài, trái phiếu được xếp hạng tín nhiệm độc lập, được bảo lãnh thanh toán bởi các tổ chức quốc tế. Điều này cho thấy, niềm tin nhà đầu tư sẽ quay trở lại nếu trái phiếu có sự minh bạch hơn.

Thứ ba, phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ cải thiện nhờ quy định mới về điều kiện phát hành và yêu cầu xếp hạng tín nhiệm.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinRatings cho rằng, những quy định mới với phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và phát hành ra công chúng đi vào hiệu lực tới đây sẽ giúp nâng cao chất lượng và chiều sâu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, biến trái phiếu doanh nghiệp thành kênh huy động vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp.

Tin liên quan
Tin khác