Nợ xấu có xu hướng tăng
Theo thống kê từ báo cáo tài chính của 28 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý I/2024, với tổng nợ xấu là 224.146 tỷ đồng, tăng đến hơn 14% cuối năm 2023. Trong đó, số dư nợ xấu của 26/28 nhà băng đã tăng so với cuối năm rồi.
Hai ngân hàng có chất lượng nợ vay cải thiện là VPBank giảm gần 1% nợ xấu và SHB giảm 0,1%. Ngược lại, ngân hàng có số tăng nhiều nhất là MB tăng 5.489 tỷ đồng, tăng 56% so với cuối năm 2023 và BIDV tăng 4.632 tỷ đồng hay tăng 20,7%.
Trong báo cáo phân tích mới đưa ra của Chứng khoán SSI cũng cho rằng, tỷ lệ nợ xấu có thể sẽ tăng trở lại trong nửa đầu năm 2024 khi tăng trưởng tín dụng chậm lại và các yếu tố vĩ mô chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt. Các chuyên gia phân tích cũng đưa ra dự báo, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2024 sẽ tăng nhẹ so với năm 2023 do cuối năm dự kiến các ngân hàng sẽ đẩy mạnh xóa nợ xấu và nền kinh tế phục hồi mạnh hơn.
Xu hướng nợ xấu tăng trở lại trong quý đầu năm và sẽ chưa hết áp lực trong năm 2024. |
ACBS cho biết, nợ xấu, nợ nhóm 2 và nợ tái cơ cấu đều có xu hướng tăng lên trong quý I/2024. Xét về tổng thể tỷ lệ này đang thấp hơn giai đoạn quý II-III/2020 trong giai đoạn Covid. Nhưng xét riêng lẻ thì tỷ lệ nợ xấu (nhóm 3-5) và nợ nhóm 2 lại đang tăng lên đáng kể, cho thấy là một lớp nợ xấu mới đang có dấu hiệu hình thành.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn quý II/2020- quý II/2021 và quý III/2021 - quý I/2023, nợ tái cơ cấu giảm dần theo thời gian. Tuy nhiên, theo nhận định của ACBS, từ quý II/2023 tới nay, nợ tái cơ cấu đang có xu hướng tăng dần. Trong khi đó, tỷ lệ LLR - dự phòng bao phủ nợ xấu tiếp tục giảm sau khi tăng nhẹ vào quý IV/2023 cho thấy áp lực trích lập dự phòng của hệ thống ngân hàng vẫn còn khá lớn trong giai đoạn tới.
Nợ xấu vẫn tiếp tục là cơn đau đầu và trở thành một trong những thách thức lớn nhất của ngành ngân hàng trong năm 2024. Ngay trong quý đầu năm, số dư nợ xấu của phần lớn ngân hàng đều ghi nhận tăng và có tới 2/3 trong số ngân hàng niêm yết là tăng hai chữ số. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, vào cuối quý IV/2023, nợ xấu từng ghi nhận sự cải thiện đáng kể khi lần đầu tiên quay đầu giảm trong 8 quý liên tiếp.
Thế nhưng, bước sang quý đầu năm nay, nợ xấu của các ngân hàng tái tăng trở lại. Tính đến ngày 31/3, tổng nợ xấu của ABBank là 3.102 tỷ đồng, tăng 9% so với đầu năm 2024. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tăng từ mức 2,91% đầu năm lên 3,92%. Đó cũng là lý do đòi hỏi ngân hàng này phải mạnh tay trích dự phòng rủi ro trong quý I/2024. Tại VietBank, tổng nợ xấu tính đến 31/3 hơn 2.524 tỷ đồng, tăng 22% so đầu năm 2024. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,56% đầu năm lên nhỉn hơn 3%.
Nợ xấu cuối quý I/2024 của PGBank là 1.033 tỷ đồng, tăng 2,4% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 2,85% lên 2,93%. Tính đến 31/03/2024, tổng nợ xấu của MSB ghi nhận 4.960 tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay tăng từ 2,87% đầu năm lên 3,18%. Tổng nợ xấu tính đến 31/03/2024 của Sacombank ghi nhận hơn 11.402 tỷ đồng, tăng nhẹ 4% so với đầu năm, song ngân hàng ghi nhận sự cải thiện rõ rệt từ nhóm nợ dưới tiêu chuẩn và nợ nghi ngờ. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ được duy trì ở mức đầu năm là 2,28%...
Theo dữ liệu ngành của WiChart, trong quý đầu năm, số dư nợ xấu (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) của ngành ngân hàng đã bất ngờ quay đầu tăng thêm 14% so với cuối năm 2023, lên 224.010 tỷ đồng. Đây là mức nợ xấu cao kỷ lục của ngành ngân hàng, vượt qua mức đỉnh ghi nhận hồi quý III/2023. So với cuối năm 2022, nợ xấu toàn ngành đã tăng tới 64%. Đồng thời, nợ nhóm 2 tăng hơn 10% so với cuối năm 2023.
Bộ đệm dự phòng mỏng
Trong khi nợ xấu liên tục tăng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng lại có xu hướng giảm. Theo tổng hợp từ 28 ngân hàng, số dư dự phòng rủi ro đạt 194.939 tỷ đồng, tăng 5,7% so với cuối năm ngoái nhưng vẫn thấp hơn đỉnh cuối quý III/2023.
Sau khi hồi phục nhẹ trong quý cuối năm trước, tỷ lệ bao phủ nợ xấu trong quý đầu năm 2024 đã giảm hơn 7% xuống còn 87%, mức thấp nhất kể từ cuối quý III/2023. Trong đó, các ngân hàng dẫn đầu về quy mô cho vay như: Vietcombank, BIDV, VietinBank hay MB thuộc nhóm có tỷ lệ bao phủ nợ xấu sụt giảm sâu nhất.
Thực tế, qua báo cáo tài chính của các ngân hàng cho thấy, đến cuối quý I/2024, chỉ có 5 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 100%. Trong khi, cuối năm 2023 có tới 10 ngân hàng trên mốc này, trong đó 4 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ vượt 200%.
Số dư nợ xấu TPBank tăng thêm 6,8% đến cuối quý I, tỷ lệ nợ xấu của là 2,23%, tăng so đầu năm nay, trong khi đó tỷ lệ bao phủ TPBank ở mức 60%, giảm 3,5%.
Theo Chứng khoán BSC, xu hướng nợ xấu tăng trở lại trong quý đầu năm cho thấy sự cải thiện về chất lượng tài sản trong quý IV/2023 chỉ mang tính thời vụ. Điều này được xác nhận bởi tỷ lệ hình thành nợ xấu trong quý tăng lên mức 0,5% dù đã giảm liên tiếp ba quý trước đó. BSC cũng nhận thấy tác động CIC trong ngành vẫn gia tăng, ảnh hưởng lớn nhất đến phân khúc bán lẻ và khách hàng lớn, khiến tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng như: MSB, MB, VIB cũng đi lên trong quý đầu năm.
BSC kỳ vọng, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng được cải thiện rõ hơn về nửa sau với xu hướng tiếp tục sử dụng dự phòng (tăng trích lập) để xử lý nợ. Qua đó dự kiến chất lượng tài sản toàn ngành được duy trì ổn định trong 2024 so với 2023, nhất là sau khi quy định về tái cơ cấu nợ trong Thông tư 02 đã được gia hạn đến hết năm.
Các chuyên gia SSI cho rằng, áp lực nợ xấu ngân hàng sẽ tiếp tục tăng trong năm 2024 khi đã bị trì hoãn ghi nhận, nền kinh tế phục hồi chậm. Hệ thống ngân hàng có thể mất khoảng 2-3 năm để trích lập đủ số dự phòng cần thiết, xóa các khoản nợ xấu.
SSI kỳ vọng, hệ thống ngân hàng có thể mất khoảng 2-3 năm để trích lập đủ số dự phòng cần thiết và xóa các khoản nợ xấu đó. Các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt hơn như: ACB, Vietcombank, VietinBank, BIDV... hồi phục sớm hơn và ngược lại.
Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại kéo dài chính sách cơ cấu, giữ nguyên nhóm nợ với doanh nghiệp khó khăn thêm 6 tháng. Điều này đồng nghĩa với việc, Thông tư 02 về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ sẽ được kéo dài thêm thời hạn đến hết năm 2024.
Lý giải lý do chỉ kéo dài thêm 6 tháng, Phó thống đốc Tú cho biết, mức độ, liều lượng của chính sách phải đảm bảo hài hòa hai vấn đề là chất lượng hoạt động của các ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp, nên trước mắt chỉ kéo dài thêm 6 tháng. Như vậy, trong năm 2024, các khách hàng vay của ngân hàng đủ điều kiện sẽ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ.
Điều kiện sẽ do các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, đánh giá khó khăn để quyết định việc cơ cấu lại khoản nợ.