Ông Lê Bá Thành, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang. Ảnh: Nguyễn Linh |
Thưa ông, trong bối cảnh thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng đến sản lượng vải thiều, năm nay tỉnh Bắc Giang không đạt được diện tích canh tác mong muốn. Vậy các sở, ban, ngành liên quan đã có những biện pháp gì để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo giá trị xuất khẩu sang các thị trường khó tính?
Đối mặt với tình hình thời tiết ảnh hưởng đến tỷ lệ ra hoa của quả vải, chúng tôi đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ nhất, phối hợp chặt chẽ với các viện, trường và Cục Trồng trọt cùng các địa phương để đưa ra kịch bản kỹ thuật tốt nhất. Chúng tôi tập trung vào các biện pháp chăm sóc để tăng tỷ lệ đậu quả và đảm bảo chất lượng. Nhờ đó, vải thiều năm nay được đánh giá là có chất lượng cao nhất từ trước đến nay, bù đắp cho sự suy giảm sản lượng.
Thứ hai, tập trung chuẩn bị tốt điều kiện cho xuất khẩu. Cụ thể là rà soát và bổ sung các mã vùng trồng đạt tiêu chuẩn cho các thị trường giá trị cao như Mỹ, Úc, Nhật Bản. Năm nay, chúng tôi đã bổ sung thêm 16 mã vùng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Thứ ba, chuẩn bị tốt cho việc rà soát các mã vùng và cơ sở đóng gói. Bắc Giang hiện có 39 cơ sở đóng gói cho thị trường Trung Quốc, 1 cơ sở cho Nhật Bản, và bổ sung thêm 1 cơ sở cho Thái Lan. Đồng thời, tiến hành lấy mẫu và phân tích 250 hoạt chất để đảm bảo không có dư lượng bảo vệ thực vật trên vải thiều, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tăng cường kết nối với các doanh nghiệp để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm bằng việc tổ chức các buổi kết nối thường xuyên giữa doanh nghiệp với các hợp tác xã, mã vùng để đảm bảo tiêu thụ hiệu quả. Đồng thời, phối hợp với địa phương quản lý tốt các mã vùng và cơ sở đóng gói để tuân thủ quy trình xuất khẩu theo quy định của thị trường quốc tế.
Vậy trung bình một ngày số mẫu được lấy để phân tích là bao nhiêu? Và khi phân tích thì dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên sản phẩm như thế nào, thưa ông?
Trung bình một ngày sẽ lấy khoảng 10 mẫu, ví dụ như ngày 28/5 vừa qua, kết quả của 10 mẫu có 250 hoạt chất đều dưới mức quy định, nên có thể nói các doanh nghiệp rất yên tâm trong việc xuất khẩu vải thiều bởi chất lượng năm nay rất tốt.
Điều này cũng đảm bảo rằng vải thiều Bắc Giang không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm ngặt của các thị trường quốc tế như Mỹ, Nhật Bản và Úc, mà còn giữ được độ tươi ngon và giá trị dinh dưỡng.
Tôi tin rằng, với những tiêu chuẩn chất lượng cao như vậy, vải thiều Bắc Giang sẽ giữ vững phong độ về chất lượng, có được lòng tin với người tiêu dùng toàn cầu.
Bên cạnh đó, chúng tôi đề nghị các hợp tác xã cũng như các hộ trồng trọt, sản xuất nhỏ lẻ cần đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao quy trình bảo quản và vận chuyển, đảm bảo rằng vải thiều giữ được chất lượng tốt nhất khi đến tay người tiêu dùng. Việc áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến như bảo quản lạnh và xử lý sau thu hoạch hiện đại giúp kéo dài thời gian bảo quản mà không làm giảm chất lượng trái cây.
Ông nghĩ sao về việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng cho vải thiều nói riêng, nông sản Bắc Giang nói chung trong tương lai?
Việc mở rộng thị trường xuất khẩu cũng là một mục tiêu quan trọng của tỉnh. Vốn dĩ, các mặt hàng nông sản chủ lực của Bắc Giang không chỉ tập trung vào các thị trường truyền thống mà vẫn đang nỗ lực thâm nhập vào các thị trường mới nổi, nơi nhu cầu về trái cây nhiệt đới đang gia tăng.
Thông qua các chiến dịch quảng bá và xúc tiến thương mại, tôi hy vọng có thể đưa vải thiều cũng như các mặt hàng nông sản khác của Bắc Giang đến nhiều quốc gia hơn, từ đó gia tăng giá trị xuất khẩu và đem lại lợi ích kinh tế cho người nông dân.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang cam kết tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng vải thiều, đồng thời mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu, nhằm đảm bảo rằng vải thiều Bắc Giang luôn là một sản phẩm nông sản hàng đầu, không chỉ trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.
Đối với vải thiều xuất khẩu, ngoài quy trình trồng trọt, quá trình chế biến sau thu hoạch cần phải đảm bảo chất lượng ra sao khi đưa ra thị trường, thưa ông?
Đầu tiên, cần kết nối với các cơ sở đóng gói để đáp ứng được việc quy trình xuất khẩu ra thị trường. Ví dụ thị trường của Trung Quốc sẽ có cơ sở đóng gói của Trung Quốc, thị trường Nhật Bản sẽ có cơ sở đóng gói của Nhật Bản, tương tự với các nước khác cũng như vậy.
Ngoài ra, để đảm bảo xuất khẩu đồng thời kết nối với các doanh nghiệp để thu mua nhiều loại mặt hàng, các cơ sở có thể chế biến các loại vải để làm nước ép hoặc siro.
Thứ hai, đầu tư và áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến nhất hiện nay để kéo dài thời gian bảo quản và giữ nguyên chất lượng của vải thiều. Công nghệ bảo quản lạnh sâu, xử lý khí ethylene, và sử dụng màng bảo quản thực phẩm hiện đại giúp trái vải giữ được độ tươi ngon, màu sắc hấp dẫn và hương vị tự nhiên.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp giám sát chất lượng nghiêm ngặt từ khâu thu hoạch, ra sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Các cơ quan chuyên môn sẽ thường xuyên kiểm tra các lô hàng, lấy mẫu ngẫu nhiên để phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và các chất bảo quản khác. Chúng tôi đã thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc, cho phép theo dõi toàn bộ quy trình sản xuất và chế biến, từ vườn cây đến khi xuất khẩu, đảm bảo minh bạch và an toàn cho người tiêu dùng.
Thưa ông, thời gian tới tỉnh có dự định gì cho việc nâng cao chất lượng, sản lượng cũng như tạo dựng thương hiệu để xúc tiến tiêu thụ vải thiều Bắc Giang vào thị trường quốc tế?
Tỉnh Bắc Giang đã và đang không ngừng nỗ lực mở rộng và phát triển các mối quan hệ hợp tác quốc tế bằng việc tham gia các hội chợ nông sản, triển lãm quốc tế và các buổi gặp gỡ thương mại giúp quảng bá hình ảnh vải thiều Bắc Giang, đồng thời tìm kiếm những cơ hội hợp tác mới. Chúng tôi cũng lắng nghe phản hồi từ đối tác và người tiêu dùng để không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, chúng tôi đã triển khai các chiến lược marketing đa kênh nhằm nâng cao nhận thức và giá trị thương hiệu của vải thiều Bắc Giang trên toàn cầu. Việc sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội, website chính thức và các chiến dịch quảng cáo trực tuyến giúp tiếp cận một lượng lớn người tiêu dùng quốc tế. Chúng tôi cũng tận dụng các cơ hội hợp tác với các nhà bán lẻ lớn và các chuỗi siêu thị để đưa sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng cuối cùng.
Đặc biệt, tỉnh đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D) để cải tiến giống cây và quy trình canh tác. Việc hợp tác với các viện nghiên cứu nông nghiệp hàng đầu giúp chúng tôi áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhằm nâng cao năng suất và chất lượng vải thiều.
Mọi hoạt động của tỉnh đều hướng tới việc tạo ra giá trị bền vững cho tất cả các bên liên quan, từ người nông dân, doanh nghiệp, cho đến người tiêu dùng và cộng đồng. Tôi tin rằng với những nỗ lực không ngừng nghỉ của địa phương, vải thiều Bắc Giang sẽ góp phần nâng cao vị thế nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.