Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn |
Ông có thể cho biết, trên thế giới đã tồn tại đề án nào tương tự Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao như của Việt Nam hay chưa?
Liên quan đến việc sản xuất lúa giảm phát thải, không chỉ Việt Nam, mà nhiều nước cũng rất quan tâm. Hiện nay, các dự án quy mô nhỏ tầm 100.000 - 200.000 ha đã có ở một số quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia… Ngay cả ở Việt Nam trước kia, chúng ta cũng có Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) giai đoạn 2015-2022. Trong dự án này, Việt Nam xây dựng được trên 180.000 ha lúa canh tác theo quy trình bền vững.
Tuy nhiên, với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, lần đầu tiên thế giới có một đề án quy mô lớn về sản xuất lúa gạo theo hướng bền vững, giảm phát thải. Triển khai thành công Đề án sẽ đem lại lợi ích về cả kinh tế, xã hội và môi trường; giải quyết các vấn đề lớn hiện nay như thu nhập của nông dân, đảm bảo an ninh lương thực, thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời góp phần thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Khi tham gia Đề án, cách thức trồng lúa của nông dân sẽ thay đổi thế nào so với hình thức canh tác truyền thống, thưa ông?
Người dân tham gia Đề án, thay vì sản xuất theo kinh nghiệm, sẽ được hướng dẫn các biện pháp canh tác bền vững như 1 phải, 5 giảm (phải sử dụng giống lúa xác nhận; giảm giống, giảm nước, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật và giảm thất thoát sau thu hoạch), sản xuất theo SRP (bộ tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới về sản xuất lúa gạo bền vững, bao gồm 41 tiêu chí và 12 chỉ số đánh giá), áp dụng quy trình tưới, khô xen kẽ... Qua đó, nông dân sẽ giảm sự phụ thuộc vào các loại vật tư bên ngoài, từ đó giảm chi phí sản xuất.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ cũng giúp tiết kiệm nhân lực, nông dân không phải dành quá nhiều thời gian, công sức vào sản xuất mà vẫn thu được năng suất cao. Hiện nay, tại ĐBSCL, việc canh tác lúa gạo bền vững đã được thực hiện, nhưng chưa trên diện rộng và chưa đồng bộ.
Được biết, khi tham gia Đề án, thu nhập của nông dân sẽ gia tăng đáng kể. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?
Nâng cao thu nhập nông dân là một trong những mục đích của Đề án. Tất nhiên, giá cả còn phụ thuộc vào thị trường, song có thể khẳng định, việc tham gia Đề án sẽ giúp nông dân cải thiện thu nhập, thể hiện qua 2 khía cạnh: giảm chi phí và tăng giá bán sản phẩm.
Về chi phí, thông qua việc áp dụng quy trình canh tác bền vững, giảm lượng phân bón, thuốc hóa học, giống... sẽ giúp giảm chi phí đầu vào. Về giá cả, việc tổ chức sản xuất và áp dụng quy trình canh tác bền vững sẽ góp phần ổn định giá bán, thậm chí giá bán lúa sẽ tăng so với canh tác truyền thống, do nhu cầu thế giới đối với các mặt hàng gạo chất lượng cao, phát thải thấp, thân thiện với môi trường ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, thông qua việc trao đổi tín chỉ carbon từ quá trình sản xuất lúa bền vững, nông dân sẽ có thêm thu nhập. Nguồn thu này có thể không nhiều nếu tính trên một đơn vị canh tác, nhưng đó là một tuyên bố của Việt Nam với thế giới, rằng chúng ta đã sản xuất ra hạt gạo với trách nhiệm cao trong bảo vệ môi trường, chúng ta cam kết giảm phát thải và đã làm được.
Với các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo, theo ông, đề án này sẽ tác động thế nào đến họ?
Các doanh nghiệp trong ngành rất cần vùng nguyên liệu lớn, cung cấp đầu vào chất lượng cao và ổn định, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, từ đó có thể nâng cao giá trị sản phẩm của doanh nghiệp khi tham gia thị trường gạo thế giới. Việc triển khai Đề án tạo cơ hội để các doanh nghiệp có thể liên kết với nông dân một cách bền vững, có vùng nguyên liệu đảm bảo chất lượng. Bởi Đề án đặt mục tiêu 100% diện tích sản xuất có liên kết giữa doanh nghiệp với hợp tác xã/tổ hợp tác/tổ chức nông dân.
Doanh nghiệp tham gia liên kết có thể vừa cung cấp đầu vào, vừa tiêu thụ nông sản cho nông dân. Như vậy, liên kết sản xuất giữa nông dân và doanh nghiệp sẽ trở nên bền vững hơn, hạn chế tình trạng phá hợp đồng. Doanh nghiệp cũng có cơ hội xuất khẩu gạo dưới thương hiệu “giảm phát thải” hay “phát thải thấp”, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Thưa ông, Việt Nam có thuận lợi gì để triển khai Đề án, và có thể phải đối mặt với khó khăn nào?
Đề án nhận được sự đồng thuận rất cao từ Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố cho đến doanh nghiệp, nông dân. Ngoài ra các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI)… cũng sẵn sàng hỗ trợ chúng ta cả về mặt tài chính và kỹ thuật trong quá trình triển khai Đề án. Như vậy, về chủ trương là rất đúng đắn, còn hiệu quả của Đề án đến đâu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhất là sự vào cuộc của địa phương, của doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân.
Cũng phải nhắc đến một lợi thế là Việt Nam đã có kinh nghiệm và nền tảng từ việc triển khai thực hiện các dự án sản xuất lúa gạo bền vững trước đó. Tiêu biểu là Dự án “Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam - VnSAT” được tài trợ bởi WB trong giai đoạn 2015 đến năm 2022, tập trung vào 2 ngành hàng lúa gạo và cà phê. Đối với ngành hàng lúa gạo, Dự án VnSAT đã thành lập và tăng cường năng lực cho 308 tổ chức nông dân, bao gồm 265 hợp tác xã và 43 tổ hợp tác tại 8 tỉnh; đào tạo, tập huấn quy trình kỹ thuật canh tác bền vững cho hơn 150.000 hộ nông dân trồng lúa. Đến thời điểm kết thúc dự án, chúng ta có 180.000 ha lúa áp dụng kỹ thuật canh tác lúa bền vững 3 giảm, 3 tăng (giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa gạo, tăng hiệu quả kinh tế). Trong đó, hơn 121.000 ha áp dụng kỹ thuật 1 phải, 5 giảm. Dự án VnSAT là cơ sở để khẳng định tính khả thi của Đề án, nếu chúng ta có cách làm và sự hỗ trợ hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta sẽ đối mặt với khá nhiều trở ngại. Việc chuyển đổi tư duy sản xuất cho các hộ nông dân không phải dễ, khi họ vẫn quen với tập quán canh tác cũ, chưa quen với việc sản xuất lúa giảm phát thải. Nông dân còn sử dụng nhiều phân bón, thuốc hóa học, sử dụng nhiều nước tưới, dẫn đến khó khăn khi chuyển giao các biện pháp canh tác mới.
Hạ tầng nhiều vùng sản xuất chưa đáp ứng được các biện pháp canh tác giảm phát thải, mặc dù hàng năm các tỉnh, thành phố đều sử dụng một phần kinh phí để hoàn thiện kết cấu hạ tầng. Hệ thống thủy lợi chưa được xây dựng đồng bộ khiến việc bơm tưới tập trung gặp nhiều khó khăn, chưa đủ năng lực đáp ứng rút nước, tưới nước tự động.
Dịch vụ logistics, công nghệ thông tin tại các vùng sản xuất chưa phát triển. Các dịch vụ hỗ trợ còn chưa đồng bộ. Quy mô của các trung tâm logistics và các doanh nghiệp còn nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu vận hành. Hệ thống đường nội đồng, đường xung quanh vùng chuyên canh chưa đầu tư đảm bảo lưu thông thuận lợi cho các phương tiện vận chuyển, máy móc.
Đặc biệt, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao là đề án rất lớn và nhiều vấn đề quá mới. Mặc dù Đề án đã đưa ra tiến độ thực hiện rõ ràng và không vội vàng, nhưng để triển khai trên phạm vi 12 tỉnh với quy mô 1 triệu ha thì đây thực sự là thách thức lớn.
Nếu thực hiện thành công, ông đánh giá Đề án sẽ tác động thế nào đến ngành lúa gạo Việt Nam?
Theo tôi, Đề án có vai trò quan trọng trong chuyển đổi ngành lúa gạo Việt Nam theo hướng bền vững. Việc triển khai thành công Đề án sẽ tạo động lực cho phát triển sản xuất bền vững đối với các ngành hàng khác, từ đó nâng cao chất lượng nông sản Việt Nam nói chung, đáp ứng được các yêu cầu của thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.
Riêng với ngành hàng lúa gạo, thời gian qua, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, giá gạo xuất khẩu có xu hướng tăng, nhưng lượng gạo xuất khẩu với giá cao lại chưa nhiều. Với mục tiêu xây dựng được thương hiệu gạo Việt Nam chất lượng cao và phát thải thấp vào năm 2030, nếu làm được, chúng ta sẽ nâng cao thương hiệu cũng như vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đề án đặt mục tiêu đến năm 2030, lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh; lợi nhuận bình quân của người trồng lúa đạt trên 40%.
Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một đề án tổng thể, không chỉ hướng tới cải thiện thu nhập cho người trồng lúa, mà còn định hình lại bức tranh tương lai của ngành lúa gạo Việt Nam.