Ngân hàng
Săn kênh đầu tư nửa cuối năm 2022; Tỷ giá vẫn căng thẳng; Doanh nghiệp bất động sản quay lại kênh trái phiếu
T.L - 03/07/2022 08:41
Kênh đầu tư nào lên ngôi 6 tháng cuối năm, Ngân hàng Nhà nước tăng hút tiền về, một số tập đoàn bất động sản lớn quay lại kênh trái phiếu... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Tìm kênh đầu tư nửa cuối năm 2022: Chấp nhận rủi ro hay kê cao gối ngủ 

Thị trường bất động sản chững lại, thị trường chứng khoán đang le lói phục hồi sau khi sụt giảm sâu trong quý II/2022, tiền ảo lao dốc không phanh, vàng biến động khó lường và giá chênh lệch quá cao so với thế giới, trái phiếu doanh nghiệp đóng băng, lãi suất tiết kiệm tuy có xu hướng tăng song vẫn ở mức thấp... khiến nhà đầu tư loay hoay tìm nơi rót vốn nửa cuối năm 2022.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Phan Dũng Khánh, chuyên gia phân tích cho rằng, trong bối cảnh lạm phát tăng mạnh trên toàn cầu, cuộc đua tăng lãi suất ngày càng gay gắt, những dự báo về đình lạm của các nền kinh tế lớn được đưa ra ngày một nhiều..., thì triển vọng của thị trường chứng khoán, bất động sản Việt Nam 6 tháng cuối năm không mấy sáng sủa.

Mặc dù thị trường chứng khoán tháng 6 đã có sự hồi phục, song TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nhận định, thị trường có nguy cơ quay đầu về 1.100 điểm cuối năm nay và khuyến nghị nhà đầu tư lựa chọn chiến lược đầu tư bảo thủ. “Chọn ngủ yên hơn là chọn ăn ngon”, ông Hiếu đưa ra lời khuyên.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế có quan điểm ngược lại. Lạm phát được kiểm soát tốt, chống dịch hiệu quả, tỷ lệ tiêm phòng cao, Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội đang được triển khai, lượng nhà đầu tư mở mới tài khoản liên tục lập kỷ lục, khối ngoại mua ròng từ đầu năm đến nay, T+2 sắp áp dụng… là các điểm tích cực cho thị trường.

TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, triển vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm nay rất sáng sủa và VN-Index sẽ đóng cửa năm ở mức 1.436 - 1.614 điểm.

Theo thống kê của Dragon Capital, trong các kênh đầu tư có triển vọng dài hạn, chứng khoán vẫn đứng đầu về độ hấp dẫn, tiếp theo là bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, tiền gửi ngân hàng, vàng, USD...

Riêng với bất động sản, khó khăn được dự báo còn kéo dài khi Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chính sách kiểm soát chặt chẽ với tín dụng bất động sản. Hiệp hội Bất động sản TP.HCM cho hay, doanh nhiệp bất động sản phụ thuộc 80% vào vốn huy động trên thị trường (tín dụng, trái phiếu doanh nghiệp, vốn từ khách hàng), song hiện tín dụng và trái phiếu doanh nghiệp đóng băng, trong khi huy động vốn từ khách mua nhà cũng khó vì khách hàng cá nhân cũng khó vay vốn ngân hàng.

TS. Sử Ngọc Khương, chuyên gia đầu tư bất động sản nhận định, hiện nay, thanh khoản của thị trường bất động sản hạn chế, nguồn cung khan hiếm. Tình hình này có thể kéo dài tới cuối năm nay. Điểm sáng nhất của thị trường bất động sản thời gian tới là dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào bất động sản có thể gia tăng khi việc đi lại đã được bình thường hóa sau dịch bệnh, đặc biệt là phân khúc bất động sản nghỉ dưỡng và bất động sản khu công nghiệp.

Dù thị trường chậm lại, song nhiều doanh nghiệp bất động sản vẫn lạc quan. Ông Đặng Hoài Nam, Giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần Bất động sản Tiến Phước cho rằng, thị trường đang trong giai đoạn sàng lọc và đây là cơ hội, là thời điểm cho những sản phẩm mang lại giá trị thực cho nhà đầu tư, khách hàng lên ngôi.

Nửa đầu năm nay là khoảng thời gian rất khó khăn cho các nhà đầu tư. Theo ông Phan Dũng Khánh, 6 tháng đầu năm nay, kênh sinh lời tốt nhất là gửi tiết kiệm, còn các kênh đầu tư tài sản khác hầu hết đều thua lỗ. Thị trường chứng khoán giảm sâu thời gian qua đã giúp nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là F0 hiểu rằng, đầu tư là công việc nghiêm túc, kiếm được tiền đã khó mà giữ được còn khó hơn gấp vạn lần.

Lời khuyên cho lựa chọn kênh đầu tư 6 tháng cuối năm của các chuyên gia rất khác nhau. TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, “tiền mặt là vua”, ai giữ càng nhiều tiền mặt càng có lợi thế và gửi tiết kiệm là một lựa chọn tốt. Thị trường chứng khoán sẽ lình xình đi ngang và tích lũy từ nay đến cuối năm. Trong khi đó, thị trường bất động sản chưa thể nóng trở lại do bị siết tín dụng, siết trái phiếu doanh nghiệp, nguy cơ bị đánh thuế căn nhà thứ hai...

Hiện nhiều nhà đầu tư có xu hướng quay lại “phòng thủ” với vàng. Tuy vậy, theo các chuyên gia, vàng chỉ nên được coi là kênh trú ẩn thay vì kênh kiếm lời. Trên thế giới, giá vàng từ đầu năm đến nay chỉ tăng 1,2%, còn giá vàng trong nước biến động khó lường do chênh lệch quá cao so với giá thế giới.

Ông Phan Dũng Khánh cho rằng, nhà đầu tư vẫn nên có vàng trong danh mục đầu tư của mình, nhưng vàng chỉ nên chiếm 10-20% tổng tài sản.

Nhìn chung, theo các chuyên gia, nhà đầu tư nên đa dạng hóa danh mục đầu tư, song phải dựa trên hiểu biết và khẩu vị rủi ro của mình để quản trị rủi ro. Thực tế, thị trường nửa đầu năm nay cho thấy, đa phần người gửi tiết kiệm có lợi nhuận cao hơn những người đầu tư vào các kênh “nóng” khác như chứng khoán, bất động sản, vàng, tiền số...

Không thể xem thường căng thẳng tỷ giá  

Hơn 10 tỷ USD đã được NHNN bán ra để can thiệp thị trường ngoại tệ cho thấy, áp lực của làn sóng tăng lãi suất trên thế giới tới tỷ giá tại Việt Nam là không nhỏ. TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) trao đổi về vấn đề này.

 TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) 

Theo ông Huân, lần tăng lãi suất mạnh nhất trong vòng 28 năm mới đây của Fed đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền tài chính toàn cầu. Đồng bạc xanh tăng giá sẽ khiến dòng tiền chảy ngược về Mỹ, các thị trường mới nổi như Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn về dòng vốn. Mấy tuần qua, NHNN đã phải tung 10-12 tỷ USD từ Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để bình ổn tỷ giá, cho thấy căng thẳng tỷ giá ở nước ta khá lớn.

Tất nhiên, NHNN tung ngoại tệ ra không chỉ với mục đích bình ổn tỷ giá, mà còn để hút VND về nhằm kiểm soát lạm phát. Tôi cho rằng, tình hình kinh tế của Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn, nhất là áp lực của lạm phát. Chính vì vậy, dường như NHNN đang tập trung cho mục tiêu kiểm soát lạm phát hơn là thúc đẩy tăng trưởng. Minh chứng là, từ ngày 21/6 đến 28/6, NHNN, thông qua kênh thị trường mở (OMO), đã hút về hơn 100.000 tỷ đồng.

Thực tế, lạm phát ở Việt Nam đang được kiểm soát khá tốt, song nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên nguy cơ nhập khẩu lạm phát là hiện hữu. Thực hiện mục tiêu ổn định vĩ mô trước, tăng trưởng sau theo tôi, là phù hợp, các nước trên thế giới cũng đang nhắm tới mục tiêu này.

Nếu các đồng tiền khác mất giá mạnh, nhưng chúng ta neo giữ giá VND với USD, thì đương nhiên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ trở nên đắt đỏ, khó cạnh tranh hơn so với các nước khác. Theo tôi, năm nay, VND sẽ giảm giá so với USD là chắc chắn. Chúng ta cũng không nhất thiết phải “neo” tỷ giá ở mức cố định theo USD, vì sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu cũng như nền kinh tế. Hiện nay, đồng tiền các nước đều mất giá khá mạnh so với USD. Đơn cử, euro từ chỗ cao hơn nhiều so với USD đã mất giá tới 30-40%, giá ngang ngửa với USD.

Ổn định kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng, song kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào xuất khẩu. Do đó, trong trường hợp này, NHNN phải hết sức khéo léo trong điều hành tỷ giá, làm sao để VND không bị mất giá quá mạnh, nhưng vẫn có sự giảm giá ở mức độ phù hợp để duy trì vị thế của xuất khẩu.

Vừa hỗ trợ xuất khẩu vừa ổn định được kinh tế vĩ mô là bài toán khó, đòi hỏi sự khéo léo trong điều hành của NHNN. “Neo cứng” tỷ giá không có lợi, song nếu để VND mất giá mạnh thì cũng gây ra rất nhiều hệ lụy như mất ổn định vĩ mô, tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài…   

Ngay cả trong khu vực ASEAN, nhiều quốc gia cũng đang phải đối mặt với tình trạng đồng nội tệ mất giá liên tục. Đơn cử, kíp Lào đã mất giá tới 50%, nguồn ngoại tệ dự trữ cạn kiệt. Tuy nhiên, với Việt Nam, tôi không lo ngại về điều này, sẽ không có cú sốc tỷ giá nào xảy ra. Như tôi đã nói, năm nay, VND sẽ mất giá so với USD, nhưng trong mức độ hợp lý.

Năm 2009, VND mất giá 9,17% do nhiều lý do, trong đó có nguyên nhân dự trữ ngoại hối thấp và nền kinh tế nhập siêu. Tuy nhiên, hiện Việt Nam có kho dự trữ ngoại hối kỷ lục 110 tỷ USD, cao gấp nhiều lần trước đây và liên tục nhiều năm qua xuất siêu, nên nguồn ngoại tệ khá dồi dào. Đặc biệt, “cơ thể” kinh tế vĩ mô nước ta hiện tại vững chắc hơn giai đoạn đó rất nhiều, nên theo tôi, áp lực tỷ giá thời gian tới là có, song các cú sốc sẽ không xảy ra.

Thực ra, động thái rút vốn của nhà đầu tư ngoại đã diễn ra từ trước khi Covid-19 diễn ra và trước khi thị trường chứng khoán lao dốc. Tuy nhiên, ở nước ta, không có hiện tượng vốn ngoại tháo chạy ồ ạt. Một số nhà đầu tư ngoại rút vốn, song dòng vốn từ Thái Lan, Hàn Quốc lại đổ vào khá mạnh, bù đắp được sự thiếu hụt này.

Tôi cho rằng, thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới sẽ vẫn trong giai đoạn đi ngang, tích lũy, chứ chưa thể tăng trưởng ngay được. Tuy nhiên, với triển vọng của kinh tế, Việt Nam vẫn là điểm sáng thu hút đầu tư trong khu vực.

Nhóm ngân hàng, Novaland, Vingroup dẫn đầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp tháng 6/2022

Theo dữ liệu Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) tổng hợp, trong tháng 6/2022 (tính đến ngày 24/06/2022), có 1 đợt phát hành trái phiếu quốc tế trị giá 100 triệu USD của CTCP VinGroup và 26 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ với giá trị là 18.210 tỷ đồng

Nhóm ngân hàng thương mại hiện đứng đầu về giá trị phát hành với giá trị là 15.790 tỷ đồng. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) phát hành nhiều nhất với 4.500 tỷ đồng, theo sau là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (4.460 tỷ đồng và MB (2.730 tỷ đồng).

Về nhóm công ty tài chính, Công ty tài chính TNHH Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng SMBC chiếm phần lớn với 1.000 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 2 năm sau 3 đợt phát hành.

Báo cáo cho thấy, trong số doanh nghiệp công bố kết quả phát hành trái phiếu trái phiếu doanh nghiệp tháng 6/2022, ngoài sự “độc chiếm” của các ngân hàng thì một số doanh nghiệp bất động sản cũng đã phát hành trái phiếu doanh nghiệp trở lại.

Dẫn đầu về khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp bất động sản tháng 6/2022 là Vingroup với 100 triệu USD trái phiếu quốc tế (tương đương hơn 2.300 tỷ đồng). Về trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong nước, Novaland đứng đầu về giá trị phát hành trong tháng 6/202 với tổng giá trị phát hành gần 2.300 tỷ đồng, Tập đoàn Nam Long với 500 tỷ đồng...

Trước đó, trong tháng 4/2022, sau sự cố Tân Hoàng Minh, thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong nước hoàn toàn vắng bóng trái phiếu bất động sản. Tuy nhiên, tháng 5/2022, doanh nghiệp bất động sản bắt đầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp trở lại. tuy ngân hàng vẫn là nhóm dẫn đầu.

Nếu không tính 525 triệu USD trái phiếu quốc tế của Vingroup thì trong tháng 5/2022, nhiều doanh nghiệp bất động sản cũng đã quay lại với kênh trái phiếu.

Đơn cử, Công ty TNHH Đầu tư và Kinh doanh địa ốc Mỹ Phú phát hành 700 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ vào ngày 17/5/2022; Công ty Hội An Invest cũng tiến hành một số đợt phát hành riêng lẻ trong tháng 5, huy động 300 tỷ đồng.

Công ty cổ phần Bất động sản An Gia phát hành 300 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ ngày 12/5; Công ty cổ phần Long Thành Riverside phát hành 105 tỷ đồng, Công ty cổ phần Đầu tư - Phát triển Đô thị Ân Phú 50 tỷ đồng.

Tính từ đầu năm đến ngày 24/6, giá trị phát hành trái phiếu ra công chúng đạt 8,996 tỷ đồng, giảm 6,14% (chiếm khoảng 6% tổng giá trị phát hành) và giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ là 143,389 tỷ đồng, giảm gần 30% chiếm 94% tổng giá trị phát hành).

Bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) cho biết, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước được giao chuẩn bị nền tảng giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ nhằm phát triển một thị trường thứ cấp minh bạch, an toàn, tăng cường khả năng quản lý, giám sát, giảm thiểu rủi ro.

Các ngân hàng kỳ vọng được nới room, vốn đắt hơn nhưng triển vọng lợi nhuận vẫn tốt

Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) vừa có báo cáo phân tích về ngành ngân hàng. VCBS kỳ vọng NHNN sẽ nới room đầu quý III/2022 và vẫn nhận định khả quan về lợi nhuận ngân hàng năm nay.

Theo VCBS, tín dụng toàn hệ thống ghi nhận mức tăng trưởng 8,04% tính tới thời điểm cuối tháng 5/2022, cao hơn đáng kể so với mức tăng trưởng 4,67% cùng kỳ 2021 nhờ nhu cầu vốn tăng cao sau dịch bệnh. VCBS kỳ vọng, tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 14 – 16% năm 2022, nhờ được hỗ trợ bởi nền kinh tế hồi phục sau dịch bện và gói hỗ trợ lãi suất 2% tương ứng với dư nợ khoảng 2 triệu tỷ đồng phân bổ trong 2022 và 2023.

Tín dụng bán lẻ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của tín dụng hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tỷ trọng tín dụng bán lẻ các ngân hàng niêm yết đã tăng từ mức 31% năm 2015 lên mức 45% tổng dư nợ tại thời điểm cuối quý 1/2022, trong đó các sản phẩm cho vay mua nhà, mua ô tô, tài chính tiêu dùng đều ghi nhận mức tăng tích cực.

Về room tăng trưởng tín dụng, VCBS cho biết, nhiều ngân hàng đã chạm hạn mức tín dụng ban đầu ngay từ cuối quý 1 và đang chờ được NHNN nới room. VCBS kỳ vọng các ngân hàng này sẽ được cấp bổ sung room tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn đầu quý 3/2022.

Nhóm phân tích VCBS đánh giá, các ngân hàng có hệ số CAR cao và mô hình quản trị rủi ro tốt như MB, Vietcombank, Techcombank, VPBank, ACB, TPBank, MSB... sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn trung bình ngành trong dài hạn. Ngoài ra, trong thời gian tới, các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng yếu kém (MB và Vietcombank) sẽ có lợi thế về tăng trưởng tín dụng so với các ngân hàng khác.

Theo nhận định của VCBS, các tiêu chí xét duyệt tín dụng của NHNN có thể kể đến như mức độ dồi dào vốn chủ sở hữu (hệ số CAR), năng lực quản trị rủi ro (thể hiện qua việc tuân thủ các chuẩn mực Basel II, Basel III, IFRS 9,…), mức độ hỗ trợ NHNN thực hiện nhiệm vụ chính trị xã hội (miễn giảm lãi suất và phí, cơ cấu lại các TCTD,…).

Do đó, nhóm phân tích VCBS đánh giá, các ngân hàng có hệ số CAR cao và mô hình quản trị rủi ro tốt như MB, Vietcombank, Techcombank, VPBank, ACB, TPBank, MSB... sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn trung bình ngành trong dài hạn. Ngoài ra, trong thời gian tới, các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc tổ chức tín dụng yếu kém (MB và Vietcombank) sẽ có lợi thế về tăng trưởng tín dụng so với các ngân hàng khác.

Ở chiều ngược lại, các ngân hàng trong diện cảnh báo có tỷ trọng cho vay các lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… có thể bị hạn chế room tăng trưởng tín dụng ở mức vừa phải hơn để bảo đảm hạn chế rủi ro hệ thống.

Theo VCBS, các ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản cao trong danh mục tín dụng bao gồm TCB, EIB, MSB, SHB, OCB.

Theo đánh giá của VCBS, diễn biến lãi suất đang tác động đáng kể đến lợi nhuận ngân hàng, cụ thể là lãi suất huy động đang nhích lên, thanh khoản bớt dồi dào trong khi việc tăng lãi suất luôn có độ trễ.  

Biên độ lãi thuần (NIM) của ngân hàng đã đạt đỉnh năm 2021 và đang có biểu hiện giảm do lãi suất cho vay tăng chậm hơn lãi suất huy động. Tuy nhiên, một số nhóm ngân hàng vẫn có thể duy trì được mức NIM cao, bao gồm nhóm ngân hàng tư nhân có tập khách hàng cá nhân tăng nhanh tiếp tục nâng cao tỷ lệ CASA và cải thiện được chi phí vốn và nhóm ngân hàng thương mại nhà nước.

Ngoài ra, thu nhập ngoài lãi gia tăng tỷ trọng chiếm trung bình 27% trong cơ cấu thu nhập của các ngân hàng với đóng góp chủ yếu từ thu nhập dịch vụ cũng giúp các ngân hàng tăng trưởng lợi nhuận tích cực. 

Mặc dù nợ xấu năm nay có thể gia tăng khi Thông tư 14 hết hiệu lực vào cuối tháng 6/2022 song các chuyên gia phân tích VCBS cho rằng, áp lực dự phòng được giảm thiểu khi các ngân hàng đã tăng cường bộ đệm dự phòng đối với các khoản nợ tái cơ cấu lên cao hơn mức quy định 30% trong bối cảnh nguồn thu nhập dồi dào.

Với tình hình này, VCBS duy trì dự báo tích cực đối với LNTT toàn ngành ngân hàng trong năm 2022. Tuy nhiên, mức độ tích cực sẽ giảm dần trong nửa cuối năm 2022 và năm 2023, đặc biêt trong năm 2023 sẽ có sự phân hóa rõ rệt về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng.

Trên thị trường chứng khoán, nhóm cổ phiếu ngân hàng đã có hai phiên hồi phục tích cực đầu tuần này. VCBS đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường, với mức định giá xấp xỉ mức trung bình 5 năm.

Các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành sẽ vẫn nằm trong nhóm có thể xem xét đầu tư trong dài hạn, bao gồm: MBB, VPB, BID, VCB, TCB, ACB, MSB, STB – theo quan điểm của chuyên gia phân tích VCBS.

Hơn 100.000 tỷ đồng đã được hút ròng khỏi thị trường trong một tuần

Sau 2 năm “đóng băng” kênh tín phiếu, tuần qua, Ngân hàng Nhà nước chính thức khởi động lại kênh này vào ngày 21/6 với khối lượng nhỏ (200 tỷ đồng) sau đó tăng dần lên các phiên sau. Trong 2 phiên giao dịch tuần đầu này, mỗi phiên,  Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hút về 15.000 tỷ đồng qua kênh tín phiếu. Như vậy, tính từ 21/6 đến 28/6, tức chỉ trong vòng 1 tuần, Ngân hàng Nhà nước đã hút về hơn 100.000 tỷ đồng thông qua kênh tín phiếu trên thị trường mở.      

Trước động thái rút tiền của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng nhẹ, song vẫn ở mức thấp, do thanh khoản tiền đồng của hệ thống vẫn dồi dào, các ngân hàng thương mại chưa được nới room tín dụng.

Không chỉ rút tiền về qua kênh tín phiếu, Ngân hàng Nhà nước cũng tăng cường bán ra ngoại tệ để bình ổn thị trường. Theo Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), Ngân hàng Nhà nước đã bán khoảng hơn 10 tỷ USD ra thị trường từ nguồn Quỹ dự trữ ngoại hối (tương ứng với 230.000 tỷ đồng hút về).  Như vậy, thông qua cả hai kênh này, Ngân hàng Nhà nước đã rút về hơn 330.000 tỷ đồng khỏi thị trường thời gian qua.  

Trao đổi với Báo điện tử Đầu tư - Baodautu.vn,  TS. Nguyễn Hữu Huân, Trưởng bộ môn Tài chính Trường đại học Kinh tế TP.HCM  cho rằng, những động thái này cho thấy, Ngân hàng Nhà nước đang tập trung hơn cho mục tiêu kiểm soát lạm phát hơn là thúc đẩy tăng trưởng.

Tại Việt Nam, dù lạm phát nửa đầu năm vẫn khá thấp song Ngân hàng Nhà nước nhận định, áp lực lạm phát nửa cuối năm và năm 2023 là rất lớn, do độ mở của nền kinh tế cao. Đây cũng là lý do khiến Ngân hàng Nhà nước tỏ ra thận trọng với nới room tín dụng.

Đến nay, câu chuyện tiếp tục bơm vốn để hỗ trợ phục hồi kinh tế hay hãm bớt vốn để ngăn lạm phát đang là vấn đề gây tranh cãi. TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, trong bối cảnh lạm phát nhập khẩu của Việt Nam có nguy cơ tăng mạnh, tăng tín dụng là "đổ dầu vào lửa".

Trong khi đó, PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: "Chúng ta không được sợ lạm phát, phải tin vào năng lực quốc gia, phải “bơm máu” cho nền kinh tế. Trong đó, dòng tiền vào bất động sản là vấn đề mấu chốt về mặt vĩ mô, không chỉ cứu ngành bất động sản mà còn tạo động lực cho nền kinh tế. Tôi vẫn tin rằng, phải tiếp tục câu chuyện bơm tiền cho nền kinh tế trên tinh thần phục hồi và phát triển, không phải rón rén, ngắt quãng, đợi “gục” rồi lại bơm tiếp”, ông Thiên nói. 

Vốn cho thị trường bất động sản: Không nên để “gục” rồi mới bơm

Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS TP.HCM (HoREA) cho rằng, dòng tiền là yếu tố tiên quyết làm nên sự thành bại của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp bất động sản, dòng tiền – đặc biệt là vốn tín dụng – cực kỳ quan trọng.

Theo ông Châu, hiện nay, doanh nghiệp bất động sản dựa tới 80-85% vốn huy động từ thị trường, trong đó có tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, trong dự thảo sửa đổi Thông tư 39 mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng từ “kiểm soát” việc cho vay mua, kinh doanh bất đọng sản và “kiểm soát” việc cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống có giá trị lớn.

Theo ông Châu, việc dùng từ ngữ này đã dẫn đến luồng dư luận cho là NHNN định hướng “thắt chặt” tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, bao gồm cả “thắt chặt” cho vay để mua BĐS cao cấp do đây là khoản vay có giá trị lớn, có thể dẫn đến hệ quả là các tổ chức tín dụng “ngại” hoặc “không dám” cho vay đối với doanh nghiệp BĐS, nhà đầu tư thứ cấp và kể cả cá nhân, hộ gia đình vay để mua, thuê mua BĐS, nhà ở.

“Điều này sẽ tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững của thị trường bất động sản trong thời gian tới. Chúng tôi đề nghị NHNN xem xét sửa lại dự thảo sửa đổi Thông tư 39 theo hướng các dự án bất động sản có tính khả thi, các doanh nghiệp có uy tín, khách hàng được đánh giá cao vẫn được tiếp cận tín dụng, người tiêu dùng có nhu cầu cũng được tiếp cận”, ông Châu đề xuất.

Phát biểu tại Hội thảo "Dòng tiền và xu thế bất động sản cuối năm 2022” diễn ra hôm nay (28/6), ông Châu cũng đề xuất Chính phủ sớm triển khai gói 15.000 tỷ đồng hỗ trợ cho nhà ở xã hội (nằm trong tổng thể gói hỗ trợ nền kinh tế 350.000 tỷ đồng). Hiện nay, gói hỗ trợ này vẫn chưa được giải ngân do nhiều vướng mắc hành lang pháp lý trong khi thời hạn triển khai lại chỉ còn hơn một năm nữa.

Ông Châu cũng kiến nghị năm 2023, cần xem xét sửa đổi luật đất đai, nhà ở để tạo ra hành lang pháp lý. Việc tháo gỡ chính sách pháp luật nhằm mục đích giúp dòng tiền được luân chuyển. Bên cạnh đó, nếu tháo gỡ được thể chế pháp luật thị trường mới phát triển ổn định và bền vững, dòng tiền luân chuyển được trong nền kinh tế và thị trường bất động sản.

Lạm phát tăng mạnh trên toàn cầu. Với độ mở nền kinh tế cao, Việt Nam cũng có nguy cơ nhập khẩu lạm phát lớn. Đây là lý do NHNN rất thận trọng trong điều hành tín dụng thời gian qua.

Tuy nhiên, PGS.TS Trần Đình Thiên - Chuyên gia kinh tế, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, chưa bao giờ Chính phủ Việt Nam có năng lực kiểm soát ổn định vĩ mô và lạm phát tốt như bây giờ. Việc bơm tiền phục hồi kinh tế - theo chuyên gia này – vẫn nên tiếp tục, thực hiện đồng thời với các giải pháp kéo giảm lạm phát chi phí đẩy.

“Tôi cho rằng, thời gian tới, chúng ta không được sợ lạm phát, phải tin vào năng lực quốc gia, phải “bơm máu” cho nền kinh tế. Trong đó, dòng tiền vào bất động sản là vấn đề mấu chốt về mặt vĩ mô, không chỉ cứu ngành bất động sản mà còn tạo động lực cho nền kinh tế. Tôi vẫn tin rằng phải tiếp tục câu chuyện bơm tiền cho nền kinh tế trên tình thần phục hồi và phát triển, không phải rón rén, ngắt quãng, đợi “gục” rồi lại bơm tiếp”, ông Thiên nói. 

Mặc dù vậy, cũng có ý kiến cho rằng, dòng vốn đầu cơ đổ quá nhiều vào bất động sản thời gian qua là bất thường và việc NHNN phanh lại là cần thiết.

 TS. Đinh Thế Hiển - Chuyên gia Tài chính cho rằng, trước đây, trong biểu vay của Ngân hàng không bao giờ cho vay quá 70% vốn của một dự án, nhưng nay ngân hàng cho vay đến 80-85% giá trị căn nhà là rất nguy hiểm. Thêm nữa, dù theo thống kê của NHNN, tín dụng bất động sản chỉ tăng khoảng 12% (4 tháng đầu năm 2022) nhưng thực tế nếu tính cả trái phiếu doanh nghiệp thì dư nợ bất động sản tăng tới 100%.

Về nguồn vốn cho thị trường bất động sản cho năm 2022, ông Hiển cho rằng, nguồn vốn duy nhất còn sáng là nguồn vốn FDI vào các khu công nghiệp, mua nhà xưởng. Còn lạ 3 nguồn vốn chủ chốt trong giai đoạn trước (trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng, khách mua nhà) đều “quay đầu” thời gian tới. 

Tơ vò xử lý nợ xấu

Quy định pháp luật chưa chặt chẽ, cách hiểu không thống nhất khiến việc xử lý nợ xấu - nhất là xử lý tài sản bảo đảm trong hệ thống ngân hàng - rối như tơ vò.  Đây là thực trạng đáng quan tâm, cho dù việc trình Quốc hội các quy định luật hóa nợ xấu chậm nhất vào tháng 5/2023 là rất cấp bách, song cũng sẽ vô cùng thách thức, nhất là khi nhiều bộ, ngành còn quan điểm khác nhau.

Thực tế, nhiều ngân hàng thương mại đang trong cảnh ngập hồ sơ khởi kiện để xử lý nợ xấu, nhiều vụ án đã được tòa thụ lý cả chục năm, song vẫn chưa được giải quyết.

Đơn cử, tại địa bàn Hà Nội, trong số 5.419 vụ án mà Tòa án Hà Nội đang giải quyết trong 6 tháng đầu năm 2022 có tới 1.223 vụ án tranh chấp tín dụng (chiếm 23%). Trong 2.400 vụ kinh doanh thương mại mà Tòa án Hà Nộ thụ lý, thì số vụ việc tranh chấp về đầu tư tài chính, ngân hàng chiếm 32,5%.

Không chỉ chậm được giải quyết, lượng án tín dụng không thể xử cũng ngày càng tăng.

Có 3 vướng mắc lớn nhất liên quan việc giải quyết tranh chấp dân sự của các ngân hàng.  Thứ nhất, có sự khác biệt về quan điểm giữa tòa án và ngân hàng. Thứ hai, việc áp dụng quy định pháp luật trong thực tiễn xét xử của tòa án các cấp không thống nhất. Thứ ba, thủ tục hành chính tố tụng có nhiều bất cập. 

Những vướng mắc trên khiến quá trình giải quyết các vụ án tín dụng kéo dài. Song vướng mắc tại tòa án chỉ là một trong vô vàn vướng mắc mà ngân hàng đang gặp phải.

Trong quá trình xử lý nợ xấu, nhiều ngân hàng đang “rối bòng bong” trong xử lý tài sản đảm bảo, đặc biệt là quyền thu giữ hay sang tên, mua bán tài sản đảm bảo, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản đảm bảo, đang bị mắc trong hoàn trả tài sản đảm bảo là vật chứng trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, khâu định giá, thẩm định giá khoản nợ và tài sản đảm bảo còn nhiều khó khăn; thiếu thị trường mua bán nợ thực sự. Ngoài ra, việc chưa có cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng tài sản đảm bảo... vẫn đang tiếp tục làm khó ngân hàng. Dù Quốc hội đã cho phép gia hạn Nghị quyết số 42/2017/QH14 thêm một năm, nhưng những vướng mắc trên vẫn đang tồn tại.

Để giải quyết những vấn đề liên quan đến xử lý nợ xấu, trong Nghị quyết Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV ban hành mới đây, Quốc hội đã giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng, trình Quốc hội xem xét chậm nhất tại Kỳ họp thứ năm (diễn ra vào tháng 5/2023).

Như vậy, còn chưa đầy một năm nữa, Ngân hàng Nhà nước phải xây dựng xong Dự thảo sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng để trình Quốc hội xem xét. Đây là nhiệm vụ vô cùng thách thức, vì Ngân hàng Nhà nước cần sự “gật đầu” của rất nhiều bộ, ngành liên quan. Trong khi đó, những vướng mắc trong xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu hiện liên quan hàng loạt luật và bộ luật như Luật Quản lý thuế, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thi hành án dân sự, Luật Phá sản, Luật Xử lý vi phạm hành chính… Do vậy, việc tìm ra tiếng nói chung giữa các bộ, ngành trong xây dựng quy định về luật hóa xử lý nợ xấu, đảm bảo hài hòa, kết nối giữa Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi và các quy định pháp luật khác là không hề đơn giản.

Việc tạo môi trường hành lang pháp lý thuận lợi cho xử lý nợ xấu là rất cấp bách nhằm đảm bảo dòng vốn tín dụng của nền kinh tế vận hành xuyên suốt. Nếu việc xử lý nợ xấu không hiệu quả, thì ngân hàng sẽ không thể giảm lãi suất, tái đầu tư tín dụng để phục vụ nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Chính vì vậy, hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu không phải là nhiệm vụ của riêng ngành ngân hàng.

Tin liên quan
Tin khác